ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở VIỆT NAM
Phan Lê Vinh
Khoa QTKD, Đại học Nguyễn Tất Thành, Email: phanlevinh2005@gmail.com
Tóm tắt: Định hướng kinh tế tuần hoàn là xu hướng phát triển của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Kinh tế tuần hoàn là một trong những lời giải bài toán làm thế nào sử dụng hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt và khan hiếm, đồng thời lại bảo vệ môi trường bền vững. Bài viết này sử dụng lý luận và kinh nghiệm thực tế của thế giới và Việt Nam về kinh tế tuần hoàn để phân tích đánh giá kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Từ những mặt đạt được và chưa đạt được đề xuất những giải pháp thực hiện định hướng kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam: nâng cao nhận thức và hành động của từng người dân, gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp, hoàn thiện chủ trương và chính sách quản lý nhà nước, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, xây dựng mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn trong mọi lĩnh vực từ sinh hoạt, sản xuất đến tiêu dùng, trong tất cả ngành nghề trong xã hội,…
Từ khóa: Kinh tế tuần hoàn, tái chế, năng lượng tái tạo, xử lý rác thải.
1. MỞ ĐẦU
Định hướng kinh tế tuần hoàn là xu hướng phát triển của thế giới, do các nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và bảo vệ môi trường bền vững. Kinh tế tuần hoàn là định hướng chính để giải bài toán sử dụng hiệu quả tối ưu các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt và khan hiếm, đồng thời lại bảo vệ môi trường xanh, sạch và phát triển bền vững.
Phát triển kinh tế nước ta theo định hướng phát triển nhanh nhưng phải sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên và bảo vệ, giảm thiểu những tác động xấu đến môi trường là yêu cầu mang tính cấp thiết. Kinh tế tuần hoàn là mô hình phát triển tất yếu, là một định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá số liệu thứ cấp và lý luận khoa học trừu tượng hóa để nghiên cứu tại bàn. Cơ sở nghiên cứu lý luận từ các bài nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài, các chủ trương, chính sách của Chính phủ để phát triển kinh tế xanh, kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường.
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1. Một số vấn đề lý luận chung về kinh tế tuần hoàn
Khái niệm kinh tế tuần hoàn
Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là khái niệm được sử dụng bởi Pearce and Turner vào năm 1990. KTTH được sử dụng để đặt tên cho mô hình kinh tế dựa trên nguyên lý cơ bản không có gì là rác thải, tất cả mọi thứ đều có thể là nguyên liệu đầu vào để sản xuất đối với sản phẩm khác, tăng hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên, giảm tối thiểu lãng phí trong quá trình sản xuất, bảo quản sau thu hoạch, chế biến và tiêu dùng, giảm thiểu tối đa gần về không, không có rác thải. Cuối chu trình thì chất hữu cơ là nguyên liệu làm phân, chất vô cơ là nguyên liệu tái sử dụng hoặc là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất ra chính nó hoặc các sản phẩm khác. Hiệu quả mang lại cao nhất cho nền kinh tế và bảo vệ môi trường xanh, sạch và bền vững.
Kinh tế tuần hoàn là một mô hình kinh doanh dựa vào kinh doanh “tuần hoàn” để tăng hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên, tái sử dụng, tái chế, sử dụng các phụ phẩm, phế phẩm, phân loại và xử lý rác thải trong quá trình từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng, tái sử dụng và xử lý rác thải ở các cấp độ vi mô từ từng người dân, gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp đến cấp độ vĩ mô từng cụm dân cư, xã, phường, huyện, thành phố, vùng lãnh thổ, quốc gia và cả thế giới. Với mục tiêu phát triển thịnh vượng về kinh tế do sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên và phát triển bền vững. Đồng thời, bảo vệ môi trường tốt do giảm thiểu rác thải tối đa gần bằng không.
KTTH không chỉ là tái sử dụng chất thải, mà coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. KTTH có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng (Đáp, 2021).
Do hậu quả của kinh tế truyền thống quan tâm chủ yếu đến lợi ích riêng của từng người dân, gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp dẫn đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên lãng phí, sử dụng không hiệu quả và bảo vệ môi trường xanh, sạch đẹp và bền vững từ sản xuất đến tiêu dùng. Nên không quan tâm đến việc thải rác ra môi trường đã và đang tạo ra một lượng rác thải khổng lồ, trong khi đó KTTH chú trọng việc quản lý, giảm thiểu tối đa rác thải và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín, không tạo ra chất thải. Việc tận dụng tài nguyên được thực hiện bằng nhiều hình thức, từ thiết kế lại, giảm thiểu, sửa chữa, tái sử dụng, tái chế và thay vì sở hữu vật chất thì hướng đến chia sẻ hoặc cho thuê (Chinh, 2020).
Lợi ích của kinh tế tuần hoàn
Kinh tế tuần hoàn có những ưu điểm và lợi ích như sau:
- Đối với quốc gia: KTTH là định hướng phát triển kinh tế mang lại tốc độ cao nhất, đạt hiệu quả kinh tế và xã hội, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, KTTH là trách nhiệm của từng quốc gia để giải quyết ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. KTTH giúp sử dụng hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên, sử dụng hiệu quả tất cả các nguồn nguyên vật liệu đã qua sử dụng, giảm thiểu chi phí xử lý rác thải; khai thác tài nguyên thiên nhiên mới tối thiểu, sử dụng hiệu quả tối ưu các nguồn tài nguyên đã khai thác; giảm thiểu tối đa chất thải, khí thải ra môi trường, gần bằng không (gần như không có rác thải, khí thải).
- Đối với xã hội: KTTH sử dụng và quản lý các nguồn tài nguyên hiệu quả tối ưu. Đồng thời bảo vệ môi trường xanh, sạch đẹp và bền vững; ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo ra nhiều sản phẩm theo chuỗi, tạo ra nhiều việc làm, nâng thu nhập cho người dân,…
- Đối với doanh nghiệp: KTTH sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo ra lợi nhuận cao, tăng chuỗi cung ứng, góp phần giảm rủi ro về thiếu tài nguyên; đầu tư hiệu quả cao, thay đổi công nghệ kỹ thuật cao, giảm chi phí sản xuất, giảm rác thải tối đa gần bằng không, giảm ô nhiễm môi trường,…
- Cá nhân, hộ gia đình: KTTH sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính, tài sản, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của cá nhân, hộ gia đình, nâng cao đời sống vật chất, các góp phần giảm rủi ro về khan hiếm các nguồn tài nguyên, giảm chi phí sinh hoạt, giảm rác thải tối đa gần bằng không, giảm ô nhiễm môi trường,…
Phát triển kinh tế tuần hoàn được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực từ sinh hoạt đến sản xuất, trong các ngành nghề như: lương thực và nông nghiệp, thời trang và dệt may, xây dựng và vật liệu xây dựng, hệ thống năng lượng và carbon, hóa chất, điện tử, công nghệ cao.
3.2. Tính tất yếu và sự cần thiết của định hướng phát triển KTTH ở Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới, nước ta từ nước nghèo đã trở thành một nước đang phát triển, một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương và trên thế giới. Tuy nhiên, nước ta đã và đang phải đối mặt với các nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu ngày càng tăng. Lượng chất thải nhựa phát sinh hàng năm khoảng 1,83 triệu tấn/năm; khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng hơn 61.000 tấn/ngày, trong đó có tới 71% tổng lượng chất thải (tương đương 43.000 tấn/ngày) được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Nhiều tài nguyên hiện đang suy giảm nghiêm trọng, nước ta đã phải nhập khẩu than đá từ năm 2015, dự báo tới năm 2030 có thể phải nhập khẩu tới 100 triệu tấn than mỗi năm. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, ô nhiễm nước có thể gây thiệt hại cho Việt Nam tới 3,5% GDP vào năm 2035. Đặc biệt, Việt Nam nằm trong số các quốc gia dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu. Dự báo, biến đổi khí hậu và thiên tai có thể gây thiệt hại lên tới 11% GDP của Việt Nam vào năm 2030. (Trung & Hữu, 2020).
Chính phủ phải thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế và các cam kết quốc tế về ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu mà Việt Nam đã tham gia ký kết thì định hướng phát triển “kinh tế tuần hoàn” là xu hướng tất yếu trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách theo mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, tăng cường tái chế, tái sử dụng chất thải,..
Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện nhiều nội dung liên quan đến KTTH, như: Chỉ thị số 36/1998/CT-TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, nhà nước đã ban hành luật và các chính sách có liên quan tới mô hình KTTH, như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn năm 2018; Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, ngày 13 tháng 4 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025,… Nội dung của các văn bản đã đề cập những khía cạnh của mô hình KTTH, như: khai thác và sử dụng tiết kiệm tài nguyên, sử dụng năng lượng tái tạo, sản xuất và tiêu dùng bền vững, chuỗi cung ứng xanh, tiêu dùng xanh,…Việt Nam đã cụ thể hóa quan điểm về kinh tế tuần hoàn trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, trong đó, xác định việc xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình KTTH (Hải, 2021).
Trong thời gian qua, cả nước ta đã phát triển nhiều mô hình theo KTTH, sản xuất theo chuỗi và bảo vệ môi trường, mô hình sản xuất nông nghiệp như: Vườn – Ao – Chuồng (VAC), Vườn – Ao – Chuồng – Rừng (VACR), hay Vườn – Ao – Chuồng – Biogas (VACB),… giúp sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, giảm thiểu rác thải, sử dụng được phụ phẩm nông nghiệp để tái sử dụng và cuối cùng là dùng làm phân bón cho đất, tạo nguồn khí đốt phục vụ sản xuất, sinh hoạt.
Tuy nhiên, các mô hình trên chưa nhiều và mang tính tự phát. Các mô hình cgủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, còn trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thì rất hiếm. Một số nguyên nhân được rút ra như sau:
Một là, nhận thức của từng người dân, gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế tuần hoàn chưa đầy đủ. Vì vậy, cần tuyên truyền vai trò, lợi ích, bản chất, nội dung, tiêu chí của kinh tế tuần hoàn đến nhận thức của ừng người dân, gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế tuần hoàn trong từ sinh hoạt đến sản xuất và trong tất các lĩnh vực, ngành nghề trong xã hội. Đây là một trong những điểm nghẽn lớn nhất cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở nước ta.
Hai là, Nhà nước chưa ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngành nông nghiệp nước ta đã và đang từng bước phát triển theo mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, hữu cơ và bền vững. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn chú trọng đến số lượng mà chưa chú trọng đến bảo quản, giảm tổn thất sau thu hoạch, chế biến sâu, sử dụng hiệu quả các phế phẩm, phụ phẩm làm nguồn nguyên liệu đầu vào cho chế biến sản phẩm phụ theo chuỗi giá trị, làm phân,… để gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên ban đầu. Tình trạng, sản xuất nông nghiệp vẫn sử dụng nhiều chất kích thích, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón vô cơ còn phổ biến.
Ba là, mô hình sản xuất theo chuỗi để sử dụng phụ, phế phẩm, tái chế, rác thải của từng người dân, gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp còn rất ít. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ xử lý phế phẩm, phụ phẩm, tái chế và xử lý chất thải trong nông nghiệp và công nghiệp còn thiếu.
Bốn là, mô hình kinh tế tuần hoàn trong công nghiệp và dịch vụ còn chưa có nhiều. Phế phẩm, phụ phẩm và rác thải trong công nghiệp, trong các khu dân cư chưa được phân loại từ nguồn để tái sử dụng và xử lý triệt để, là nguồn gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
Năm là, Nhà nước chưa ban hành các chủ trương, chính sách để lang pháp lý đầy đủ, thiếu hướng dẫn và tiêu chuẩn hóa cho triển khai kinh tế tuần hoàn.
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy định hướng kinh tế tuần hoàn ở nước ta
Từ kinh nghiệm thực tiễn về kinh tế tuần hoàn, để phát triển mô hình KTTH ở Việt Nam, một số giải pháp được đề xuất như:
Một là, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức của từng người dân, gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước về trách nhiệm của họ đối việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường bền vững, cụ thể là sử dụng hiệc quả tất cả các nguồn tài nguyên trong suốt vòng đời của chúng, phân loại rác thải để tái sử dụng và xử lý không làm ô nhiễm môi trường. Về phía cộng đồng doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ thân thiện với môi trường, sản xuất theo chuỗi trong hoạt động sản xuất, liên kết liên doanh sử dụng và tái sử dụng phụ phẩm, rác thải không tạo ra rác thải gây ô nhiễm môi trường. Về phía cá nhân, hộ gia đình cần sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên hiệu quả; thực hiện bảo vệ môi trường sống như phân loại rác tại nguồn để tái sử dụng và xử lý rác.
Hai là, Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phát triển theo chuỗi giá trị, sử dụng tất cả phụ phẩm, phế phẩm để tái chế và xử lý rác thải, thúc đẩy sản xuất và sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường. Khuyến khích phát triển đội ngũ lao động nghiên cứu, triển khai công nghệ thân thiện môi trường, tái sử dụng phụ phẩm, phế phẩm và xử lý rác thải. Đầu tư nghiên cứu và chuyển giao các mô hình KTTH hiệu quả cao trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ở các địa phương có diện tích trồng trọt và chăn nuôi quy mô lớn và nhiều khu công nghiệp và du lịch. Ban hành chính sách hỗ trợ cho các cá nhân, tổ chức thực hiện thu gom, phân loại phụ, tái chế phế phẩm, phụ phẩm và xử lý rác thải.
Ba là, xây dựng ban hành các cơ chế chính sách ưu đãi về tín dụng, về thuế, hoặc đất đai, như là đòn bẩy tài chính để tất cả các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp để tham gia vào kinh tế tuần hoàn. Phát triển kinh tế tuần hoàn phải gắn với phát triển khoa học, thay đổi công nghệ mới bảo vệ môi trường. Để phát triển KTTH cần đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi, để giải quyết tốt các vấn đề, từ khâu đầu đến khâu cuối của cả quá trình sản xuất, từ sinh hoạt đến sản xuất, tiêu dùng và tái sử dụng,…
Bốn là, Chính phủ cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho định hướng KTTH. Quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường cụ thể của nhà sản xuất, nhà phân phối và người sử dụng trong từng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng để thu hồi, phân loại, tái chế và xử lý rác thải. Qui định cụ thể chi phí xử lý rác thải, các sản phẩm thải bỏ sau khi sử dụng theo số lượng sản phẩm bán ra hoặc tiêu dùng. Quản lý chặt chẽ các nguồn tài nguyên theo vòng đời sản phẩm, xây dựng và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường,…
Năm là, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm phát triển KTTH của thế giới, nhất là các nước đã và đang thực hiện thành công KTTH, từ đó nghiên cứu xây dựng nhiều mô hình KTTH cụ thể trong ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ để áp dụng vào nước ta.
4. KẾT LUẬN
Định hướng KTTH là xu thế phát triển của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việt Nam trong những năm qua đã và đang phát triển theo kinh tế xanh, sạch, bền vững và thân thiện môi trường đã đạt được một số mô hình KTTH hiệu quả, song các mô hình trên chưa nhiều và chưa phổ biến. Trong đó, ngành nông nghiệp là ngành quan trọng đã xây dựng và thực hiện được nhiều mô hình tốt, tuy nhiên cũng là gây ra vấn nạn môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nên định hướng kinh tế tuần hoàn là xu thế tất yếu. Bài viết nghiên cứu đã phân tích được năm điểm nghẽn của KTTH là: Nhận thức của từng người dân, gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế tuần hoàn chưa đầy đủ; Nhà nước chưa khuyến khích để phát triển kinh tế tuần hoàn trong công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp phát triển; năng lực liên kết, liên doanh tái chế, tái sử dụng phụ, phế phẩm, phân loại và xử lý rác thải của từng người dân, gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế; mô hình KTTH trong nông nghiệp đã và đang được thực hiện, tuy nhiên còn mang tính tự phát, nhưng kinh tế tuần hoàn trong công nghiệp và dịch vụ hiện nay còn chưa phát triển; Nhà nước chưa tạo ra hành lang pháp lý, thiếu hướng dẫn và tiêu chuẩn hóa để thực hiện kinh tế tuần hoàn. Từ đó, bài nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp để định hướng KTTH để phát triển thời gian tới tại Việt Nam. Nên, để thực hiện được định hướng này, tác giả cho rằng phải có sự nỗ lực của mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt doanh nghiệp là động lực trung tâm, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt và cá nhân, hộ gia đình tham gia thực hiện để thay đổi cả về nhận thức và hành vi của toàn xã hội. Đồng thời, Chính phủ cần xây dựng, ban hành các chủ trương chính sách gắn với việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất, phân phối và tiêu dùng trong việc thu hồi, tái chế sản phẩm thải bỏ, xử lý rác thải… để mô hình kinh tế tuần hoàn ở nước ta phát triển có hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chinh, N. T. (2020). Cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Tạp chí cộng sản, 259, 45-56.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2022). Nghị quyết số 13- NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Hà Nội ngày 22/4/2022. 15-16.
Đáp, N. Đ. (2021). Kinh tế tuần hoàn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Ngân hàng, 173, 32 -41.
Trung, B. Q., & Năm, P. H. (2020). Một số giải pháp thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 6/2020, 23-31.
Hải, L. T. (2021). Định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn cho ngành nông nghiệp ĐBSCL. Tạp chí Môi trường, 231, 34-45
Miền, N. T. (2021). Phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị. Tạp chí Lý luận Chính trị, 10, 65-70.
Mạnh, P. T. (2021). Kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế tuần hoàn và bài học cho Việt Nam. Tạp chí Tài chính, số kỳ 1 tháng 8/2021, 24-33.
Triết, T. T. (2021). Chính sách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở một số nước và bài học cho Việt Nam. Tạp chí Hòa nhập, tháng 11, 45.