Điểm nổi bật của Mobile Money là tài khoản thanh toán gắn với SIM và người dùng không cần có tài khoản ngân hàng.
Link bài viết gốc: https://vnexpress.net/mobile-money-la-gi-4246528.html
Bản chất của Mobile Money là chuyển đổi hình thức của tiền mặt sang tiền điện tử theo tỉ lệ 1:1. Tức là, đơn vị cung cấp dịch vụ Mobile Money sẽ không tạo ra lượng tiền mới đưa vào lưu thông. Tiền trong tài khoản Mobile Money gắn với SIM nhưng phải tách biệt với tài khoản viễn thông, bởi tài khoản viễn thông thực tế còn có thêm khoản khuyến mại, nếu cho phép sử dụng để thanh toán sẽ không đảm bảo nguyên tắc chuyển đổi tỷ lệ 1:1.
https://www.youtube.com/watch?v=1qXENhMPr4I
VNEconomics – Chúng tôi mong muốn đem tri thức khoa học, công nghệ, kinh tế đến với nhiều người Việt Nam. Đặc biệt là kiến thức về Blockchain & tiền mã hóa
Báo chí Việt Nam nói về Mobile Money
Điểm nổi bật của Mobile Money là tài khoản thanh toán gắn với SIM và người dùng không cần có tài khoản ngân hàng.
Link bài viết gốc: https://vnexpress.net/mobile-money-la-gi-4246528.html
Với việc các nhà mạng được thí điểm làm Mobile Money, sắp tới, người dân không có tài khoản ngân hàng cũng có thể thanh toán điện tử.
Thủ tướng vừa ban hành Quyết định 316 cho phép thí điểm Mobile Money trong 2 năm. Trong bối cảnh vẫn còn nhiều người Việt Nam chưa có tài khoản và khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng, việc thí điểm này nhằm tận dụng hạ tầng dữ liệu, mạng lưới viễn thông để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Đồng thời, tăng cường việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo của Việt Nam.
Mobile Money là gì?
Bản chất của Mobile Money là chuyển đổi hình thức của tiền mặt sang tiền điện tử theo tỉ lệ 1:1. Tức là, đơn vị cung cấp dịch vụ Mobile Money (ở đây, theo Quyết định cho phép thí điểm Thủ tướng vừa ban hành, là nhà mạng) không tạo ra lượng tiền mới đưa vào lưu thông.
Tiền trong tài khoản Mobile Money gắn với SIM nhưng phải tách biệt với tài khoản viễn thông, bởi tài khoản viễn thông thực tế còn có thêm khoản khuyến mại, nếu cho phép sử dụng để thanh toán sẽ không đảm bảo nguyên tắc chuyển đổi tỷ lệ 1:1.
Hình thức này tương tự thẻ ATM, khi khách hàng nộp tiền mặt để nhận được một khoản tiền điện tử có giá trị tương đương.
Nói cách khác, người dùng không thể quy đổi số dư trong tài khoản viễn thông sang tài khoản thanh toán này. Khách hàng sẽ không được trả lãi với số dư để trong tài khoản thanh toán Mobile Money.
Ngoài ra, toàn bộ tiền trong tài khoản Mobile Money của nhà mạng phải được mang bảo đảm tại ngân hàng, và không được sử dụng cho mục đích khác ngoài thanh toán.
Khách hàng có thể làm gì với Mobile Money?
Không phải ai có SIM cũng có thể thanh toán Mobile Money (chỉ được thanh toán khi người đó mở tài khoản).
Theo Quyết định 316, mỗi khách hàng chỉ được mở một tài khoản Mobile Money tại một nhà mạng. Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng phải có SIM chính chủ, SIM này hoạt động liên tục tối thiểu 3 tháng và được nhà mạng định danh, xác thực theo quy định về đăng ký thuê bao di động.
Có 3 cách để khách hàng nạp/rút tài khoản Mobile Money là thực hiện tại điểm giao dịch của nhà mạng, từ tài khoản ngân hàng hoặc ví điện tử của chính nhà mạng đó.
Sau đó, khách hàng có thể dùng tiền trong tài khoản Mobile Money thanh toán hàng hóa, dịch vụ cho các đơn vị chấp nhận loại tiền này. Đồng thời, chủ thuê bao di động có thể chuyển tiền sang tài khoản Mobile Money của người khác trong cùng một nhà mạng, cũng chuyển tiền sang tài khoản thanh toán tại ngân hàng và ví điện tiện do nhà mạng cung cấp.
Khác tiền để trong tài khoản ngân hàng, người dùng Mobile Money sẽ không được nhà mạng trả tiền lãi hàng tháng và cũng như tài khoản ngân hàng, bị cấm cho thuê, mượn, tặng, bán tài khoản và thông tin tài khoản.
Đơn vị nào được cung cấp Mobile Money?
Chính phủ quy định doanh nghiệp thí điểm phải đồng thời có giấy phép trung gian thanh toán ví điện tử và giấy phép thiết lập mạng viễn thông công cộng di động mặt đất sử dụng băng tần số vô tuyến điện hoặc là công ty con của các công ty có giấy phép trên.
Như vậy, hiện có 3 nhà mạng đủ điều kiện xin phép tham gia thí điểm ngay là Viettel, VNPT và Mobifone. Trong đó, Mobifone vừa được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán hôm qua 9/3.
Mobile Money khác gì ví điện tử?
Ví điện tử là một tài khoản điện tử thường được tích hợp vào ứng dụng điện thoại, được xem như một ví đựng tiền lẻ giúp người dùng thanh toán tại các điểm chấp nhận offline và online. Bất kỳ ai có tài khoản ngân hàng (liên kết với ví điện tử) và một chiếc điện thoại smartphone đều có thể sử dụng và giao dịch bằng ví điện tử.
Trong khi đó, Mobile Money là tài khoản điện tử được mở dựa trên thuê bao di động, cũng dành cho thanh toán hàng hóa, dịch vụ giá trị nhỏ. Tuy nhiên, người dân không cần phải có tài khoản ngân hàng cũng có thể đăng ký và dùng dịch vụ tiền di động với điều kiện sử dụng SIM chính chủ.
Điểm khác biệt lớn nhất là dịch vụ Mobile Money không yêu cầu phải có tài khoản ngân hàng mới được sử dụng và thanh toán như ví điện tử. Bù lại, hạn mức giao dịch hàng tháng bằng tiền di động chỉ 10 triệu đồng trong khi hạn mức của ví điện tử gấp 10 lần con số này – 100 triệu đồng một tháng.
Mobile Money khác gì Mobile Payment?
Mobile Money là một dạng tiền điện tử còn Mobile Payment nhằm nói đến phương thức thanh toán. Mobile Payment mô tả các giao dịch thanh toán được thực hiện qua thiết bị di động nói chung bao gồm ứng dụng mobile banking của ngân hàng, ví điện tử và có thể bao gồm cả Mobile Money…
Link bài gốc: https://vnexpress.net/nhung-dieu-can-biet-ve-mobile-money-4246401.html
Dù tiềm năng và nhiều dư địa phát triển Mobile Money, nhà mạng vẫn sẽ phải giải nhiều bài toán khó khi tham gia sâu vào cuộc chơi tài chính.
Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền thông) đang yêu cầu các doanh nghiệp đẩy nhanh thí điểm Mobile Money ngay trong tháng 3 sau khi được Thủ tướng đồng ý thí điểm 2 năm.
Trong ba nhà mạng lớn, đủ điều kiện, Viettel nhiều khả năng đang dẫn đầu cuộc đua khi đã sẵn sàng cung cấp dịch vụ Mobile Money đến 100% khách hàng sau thời gian cho hơn 40.000 nhân viên thử nghiệm sử dụng với các giao dịch nhỏ từ cuối năm 2020. Chưa kể, Viettel cũng đã triển khai Mobile Money tại 6 thị trường nước ngoài nên cách thức vận hành, chi phí, nhân lực đều đã được tính toán kĩ lưỡng.
VNPT và Mobifone cũng cho biết đã sẵn sàng để cung cấp thí điểm Mobile Money. VNPT đã xây dựng được hệ sinh thái tài chính số khi nền tảng VNPT Pay đã có gần 50.000 điểm chấp nhận thanh toán. Mobifone cũng dự kiến nộp hồ sơ cấp phép cho dịch vụ Mobile Money trong vài tuần tới. Đơn vị này cũng vừa có giấy phép trung gian thanh toán – điều kiện tối quan trọng – để làm Mobile Money ngay trước giờ “G” khi cơ chế thí điểm được thông qua.
Với hơn 124 triệu thuê bao di dộng hiện nay, các doanh nghiệp viễn thông vẫn còn khá nhiều dư địa để phát triển, có thêm nguồn thu chất lượng mới khi doanh thu từ các hoạt động cốt lõi như cước viễn thông, dữ liệu đã đến giai đoạn khó tăng trưởng. Tuy nhiên, việc tham gia sâu vào lĩnh vực công nghệ tài chính không dễ.
Thách thức đầu tiên chính là việc xác thực khách hàng, trong đó sim “rác” là một bài toán nan giải. Với Mobile Money, mỗi khách hàng chỉ được mở một tài khoản thanh toán theo SIM chính chủ tại một nhà mạng. Hai năm qua, để dọn đường cho việc phát triển Mobile Money, các cơ quan quản lý và nhà mạng đã mạnh tay xử lý nạn SIM rác, cuộc gọi, tin nhắn rác. Dù đã giảm thiểu khá nhiều, tình trạng SIM kích hoạt sẵn được bày bán công khai vẫn tồn tại ở một số khu vực hay SIM chưa đúng thông tin vẫn chưa được giải quyết triệt để.
“Nếu việc định danh khách hàng, quản lý SIM rác và giao dịch ẩn danh không được thực hiện chặt chẽ, Mobile Money có thể là kênh để rửa giao dịch, ảnh hưởng đến công tác phòng chống rửa tiền”, Viện Đào tạo và Nghiên cứu Ngân hàng BIDV nhận định trong báo cáo về dịch vụ này.
Theo quyết định 316 của Thủ tướng, các doanh nghiệp thí điểm Mobile Money phải chịu trách nhiệm định danh, nhận biết (KYC) khách hàng chính xác. Trong trường hợp không gặp mặt trực tiếp khách hàng lần đầu mở tài khỏa Mobile Money, nhà mạng phải xây dựng, ban hành quy trình đăng ký điện tử phù hợp quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền…
Ngay với cả các ngân hàng, công ty tài chính giàu kinh nghiệm, việc xác thực thông tin khách hàng qua kênh hoặc ứng dụng trực tuyến hiện vẫn còn có những kẽ hở. Gần đây, xuất hiện một số trường hợp không vay tiền những bỗng dưng mắc nợ công ty tài chính vì bị kẻ xấu giả mạo chứng minh thư để qua mặt hệ thống eKYC và chính doanh nghiệp cũng trở thành nạn nhân. Do đó, đây cũng là một thách thức nhà mạng cần giải quyết, để tránh các hệ lụy xấu có thể xảy ra với cả doanh nghiệp và khách hàng.
Tiếp đến là bài toán quản lý các điểm giao dịch. Lãnh đạo một doanh nghiệp ví điện tử có thị phần lớn tại Việt Nam hiện nay cho rằng để hoạt động hiệu quả, các nhà mạng cũng cần giải bài toán làm thế nào để hạ thấp chi phí nộp tiền vào tài khoản Mobile Money qua các điểm giao dịch. Ông thông tin như với hình thức nạp thẻ cào vào tài khoản viễn thông, chi phí phát hành và phân phối mất vài phần trăm giá trị thẻ cào. Trong khi đó, thông lệ thị trường hiện nay, công cụ thanh toán nộp tiền từ tài khoản ngân hàng chỉ mất dưới 1%, kể cả ví điện tử.
“Khi nạp tiền mặt tại điểm giao dịch sẽ phát sinh chi phí quầy, két, bảo vệ, độ trễ của dòng tiền. Làm sao để nạp tiền mặt vào Mobile Money tốn chi phí ít hơn thẻ cào”, ông nói.
Nhà mạng luôn coi hàng chục nghìn điểm giao dịch của mình là lợi thế sẵn có. Nhưng nếu không quản lý chặt chẽ, xây dựng được quy trình đồng bộ, training nhân viên chuẩn chỉ, đây có thể lập tức trở thành điểm yếu, gót chân achilles, nhất là tại các khu vực vùng sâu, vùng xa…
Quan trọng hơn, các nhà mạng được làm Mobile Money khi các hình thức thanh toán trực tuyến, ví điện tử đã nở rộ trên thị trường và cơ chế thí điểm hiện tại có nhiều rào cản.
Ngoài lợi thế không cần tài khoản ngân hàng, Mobile Money thực sự chưa có nhiều ưu điểm hơn ví điện tử. Nhiều khách hàng nhận xét hạn mức 10 triệu đồng một tháng cho một tài khoản Mobile Money trong 2 năm thí điểm là khá nhỏ hay việc không thể chuyển khoản khác nhà mạng cũng là trở ngại với người dùng. Mức “quota” này sẽ khiến các nhà mạng khó làm thoả mãn tệp khách hàng trẻ ở thành thị, có nhu cầu mua sắm thanh toán không tiền mặt nhiều trong một tháng.
Chưa kể, để thu hút được lượng khách ở các đô thị lớn có sức chi tiêu trực tuyến mạnh, nhà mạng sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với các ví điện tử hay với cả những ngân hàng đang đẩy nhanh phát triển ứng dụng ngân hàng số. Thời gian qua, một số ví điện tử có tiềm lực chi đến cả chục USD khuyến mại cho mỗi một người dùng.
Tuy vậy, người dùng Việt thường không trung thành với một ứng dụng, có thể lập tức chuyển sang những cái tên mới ra đời với ưu đãi nhiều hơn. Nếu mạnh tay theo cuộc đua tốn kém này, các nhà mạng vẫn có thể biến Mobile Money thành một nhân tố hấp dẫn, tiếp sức thêm cho thị trường thanh toán điện tử Việt Nam.
Link bài báo gốc: https://vnexpress.net/bai-toan-cho-cac-nha-mang-khi-lam-mobile-money-4247476.html
Chỉ số quy định về Mobile Money của Việt Nam đạt 74,70 điểm, nằm trong thang trung bình khá của thế giới do đang trong giai đoạn thí điểm.
Chỉ số về dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động (Mobile Money Regulatory Index) là công cụ đo lường mức độ hiệu quả trong việc thiết lập môi trường pháp lý, tạo điều kiện cho Mobile Money phát triển bền vững. Đánh giá này được phát hành bởi Hiệp hội Thông tin di động toàn cầu (GSMA).
Các chỉ số này được đo lường dựa trên kỹ thuật định tính và định lượng để tính điểm cho 95 quốc gia trên thế giới với thang điểm từ 0 đến 100. Các nội dung chính được GSMA quan tâm gồm: Tính uỷ thác; Định danh khách hàng (KYC); Bảo vệ người tiêu dùng; Mạng lưới đại lý; Giới hạn giao dịch; Cơ sở hạ tầng và mạng lưới đầu tư.
Theo đó, Việt Nam đang được chấm 74,70 điểm về chỉ số Mobile Money, mức trung bình khá so với toàn cầu. Ở hạng mục uỷ quyền và hạn mức giao dịch, Việt Nam được điểm tối đa. Khả năng bảo vệ người tiêu dùng đạt 80/100. Cơ sở hạ tầng và môi trường đầu tư được 63 điểm. KYC và mạng lưới đại lý lần lượt là 52 và 24 điểm.
Nguyên nhân khiến điểm số mạng lưới đại lý và định danh khách hàng thấp là do chính phủ Việt Nam vừa công bố thí điểm Mobile Money hôm 9/3. Các đại lý mới bắt đầu nộp hồ sơ xin tham gia. GSMS sẽ cập nhật theo thời gian thực vì vậy điểm số này sẽ được thay đổi khi mô hình này phổ biến thời gian tới.
Các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương được chấm điểm khá cao. Thái Lan nằm trong top cao nhất thế giới với 94,50 điểm. Quốc gia láng giềng của Việt Nam – Campuchia – được 82,05 điểm, Singapore được 83,30 điểm.
Link bài viết gốc: https://vnexpress.net/viet-nam-duoc-74-7-diem-ve-mobile-money-4247139.html
Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ ví điện tử, viễn thông có thể xin phép thí điểm triển khai dịch vụ Mobile Money từ ngày 9/3.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Quyết định phê duyệt triển khai thí điểm tiền di động (Mobile Money), tức dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ. Thời gian thí điểm trong 2 năm, tính từ 9/3.
Việc cho phép thí điểm Mobile Money nhằm mục tiêu góp phần phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo của Việt Nam.
Đối tượng được phép tham gia thí điểm tiền di động là các doanh nghiệp có giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán ví điện tử và nhà mạng viễn thông.
Theo quyết định, các doanh nghiệp này được cung cấp dịch vụ đến khách hàng có chứng minh thư nhân dân hoặc căn cước công dân, hộ chiếu trùng với thông tin đăng ký thuê bao di động và được định danh, xác thực theo quy định. Đồng thời, thuê bao di động cũng phải có thời gian kích hoạt và sử dụng liên tục trong ít nhất 3 tháng liền kề tính đến thời điểm đăng ký mở, sử dụng dịch vụ tiền di động.
Mỗi khách hàng chỉ được mở 1 tài khoản Mobile Money tại mỗi doanh nghiệp thực hiện thí điểm. Tổng hạn mức giao dịch cho một tài khoản loại này không được quá 10 triệu đồng một tháng cho tất cả giao dịch gồm rút tiền, chuyển tiền, thanh toán.
Khách hàng có thể nạp tiền vào tài khoản Mobile Money tại điểm kinh doanh của doanh nghiệp tham gia thí điểm, từ tài khoản ngân hàng hoặc ví điện tử. Ở chiều ngược lại, khách hàng cũng có thể rút tiền từ tài khoản Mobile Money về tài khoản ngân hàng, ví điện tử và tại các điểm kinh doanh.
Kết quả thí điểm triển khai Mobile Money sẽ là cơ sở thực tiễn để cơ quan quản lý có thẩm quyền xem xét, xây dựng và ban hành các quy định pháp lý chính thức cho hoạt động cung ứng dịch vụ này tại Việt Nam.
Trước đó, Vụ trưởng Thanh Toán (Ngân hàng Nhà nước) Phạm Tiến Dũng cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất với thanh toán tại Việt Nam là hành vi thói quen. “Mobile Money sẽ là một kênh giáo dục tài chính. Nhờ nó, người dân có thể biết sử dụng dịch vụ tài chính, gián tiếp giúp họ hiểu và nhanh chóng sử dụng, thúc đẩy dịch vụ ngân hàng. Nó làm cho miếng bánh lớn lên, không ảnh hưởng tới bên nào”, Vụ trưởng Thanh toán nhận định.
Cùng quan điểm, Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cũng từng cho rằng, ngân hàng không phải quá lo lắng vì Mobile Money với các giao dịch nhỏ chính là sự đào tạo người dân để trở thành khách hàng sau này cho ngân hàng. Lãnh đạo Bộ Thông tin & Truyền thông cũng tin tưởng, Mobile Money đẩy mạnh việc tiếp cận các dịch vụ tài chính.
Link bài báo gốc: https://vnexpress.net/thu-tuong-dong-y-thi-diem-mobile-money-4246011.html
Mobile Money đã phổ biến ở 95 quốc gia, với hơn 2 tỷ USD giao dịch mỗi ngày. Số người tiếp cận các đại lý chuyển tiền cao gấp 7 lần ATM.
Hiệp hội Thông tin di động thế giới (GSMA) định nghĩa Mobile Money là hình thức tiếp cận dịch vụ tài chính qua điện thoại di động. Với Mobile Money, mỗi người chỉ cần có một số điện thoại được đăng ký chính chủ là có thể sử dụng được dịch vụ. Để thanh toán online, người dùng cần cài đặt trên điện thoại một ứng dụng dùng công nghệ Near Field Communication (NFC). Thông tin được lưu trữ ngay trên thiết bị cá nhân và SMS để đảm bảo tính an toàn. Người dùng có thể gửi, rút, chuyển tiền bằng điện thoại và thanh toán các hoá đơn, mua hàng tại cửa hàng.
Với những đặc trưng của mình, Mobile Money trở thành giải pháp cho thanh toán điện tử ở nông thôn, khu vực vùng sâu, vùng xa, những nơi chi nhánh ngân hàng và Internet chưa phát triển mạnh. Nó đã giúp thay đổi cuộc sống của hàng tỷ người trên toàn cầu.
Tương tự tiện ích của các phương tiện thanh toán phi tiền mặt, người dùng Mobile Money có thể nhận tiền, lưu trữ, thanh toán trên điện thoại ở bất kỳ nơi nào phủ sóng di động mà không phải đến ngân hàng. Việc chuyển tiền cũng đơn giản.
Ở những quốc gia tiền mặt đang mất giá, như Somalia hay Zinbabwe, Mobile Money rất tiện lợi cho người dân khi đi chợ, mua sắm. Thay vì phải vác cả bao tải tiền giấy đi trao đổi, mọi người chỉ cần giao dịch qua điện thoại. Việc lưu trữ, chuyển tiền cũng an toàn hơn giao dịch tiền mặt.
Toàn bộ tiền trong Mobile Money được bảo vệ bởi ứng dụng mã hóa. Người dùng phải đăng nhập bằng mật khẩu để mở điện thoại, nhập mã PIN nếu muốn thực hiện giao dịch. Trong trường hợp bị mất điện thoại, người dùng chỉ cần gọi đến công ty cung cấp dịch vụ, thông báo tạm khoá tài khoản, sau đó thay điện thoại, sim mới và tiếp tục sử dụng bình thường.
Giám đốc điều hành Ngân hàng Thế giới (WB) Sri Mulyani Indrawati nhận định, Mobile Money sẽ là bước đệm quan trọng để thoát nghèo và hướng đến sự bình bẳng. Ở Kenya, Mobile Money còn là một trong những biện pháp chống tham nhũng. Lịch sử giao dịch được ghi lại trong điện thoại sẽ là bằng chứng chống lại những hành vi đút lót hoặc “vòi” tiền.
Ở một khía cạnh khác, Mobile Money hoạt động như một tài khoản ngân hàng, cho phép người dùng theo dõi chi tiết thu chi, khuyến khích tiết kiệm, lên kế hoạch chi tiêu cho tương lai. Khi người dân tham gia rộng rãi vào hệ thống tài chính, nền kinh tế quốc gia có thể được cải thiện bằng nhiều cách, giúp giảm tác động từ các cú sốc tài chính.
Mobile Money ngày một phổ biến
Thống kê của GSMA đến cuối năm 2019 cho thấy, Mobile Money đang có 290 loại hình giao dịch tại 95 quốc gia toàn cầu với 1,04 tỷ tài khoản được đăng ký. Các đại lý chuyển tiền qua điện thoại di động có phạm vi tiếp cận nhiều gấp 7 lần so với ATM và gấp 20 lần so với các chi nhánh ngân hàng.
Tính đến hết tháng 12/2019, có trung bình 37,1 tỷ giao dịch qua kênh Mobile Money, tổng giá trị giao dịch lên đến 690,1 tỷ USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Các tổ chức nghiên cứu thị trường tiền tệ dự đoán quy mô kinh tế của Mobile Mobile có thể đạt 12 tỷ USD vào 2024, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm ước đạt 28,7%.
Tuy nhiên, mức độ phát triển của Mobile Money không đồng đều giữa các quốc gia. Châu Phi đang là tâm điểm của Mobile Money với tỷ lệ người dùng lớn. Ở Kenya, có hơn 72% dân số dùng dịch vụ trong khi ở Mexico chỉ có 11%.
Theo giới phân tích, đặc điểm của mỗi quốc gia và mô hình quản lý là những yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến độ phủ của Mobile Money. Ở những quốc gia có nền công nghệ, tài chính phát triển, Mobile Money chỉ là lựa chọn phụ. Nhưng ở những nước nghèo hoặc các quốc gia đang phát triển, nơi người dân chưa tiếp cận được dịch vụ tài chính số, Mobile Money lại phát triển đặc biệt nhanh.
Thống kê của GSMA cho thấy khu vực châu Á – Thái Bình Dương có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới trong năm 2019 với 158 triệu tài khoản. Trong đó có 60 triệu tài khoản hoạt động thường xuyên, cao hơn 29% so với cùng kỳ năm trước. Mức độ phủ sóng của dịch vụ viễn thông cùng các yếu tố, như dân số đông, số thuê bao di động ngày càng tăng và sự năng động trong thị trường công nghệ tài chính đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường Mobile Money.
Mô hình quản lý trên thế giới
Mặc dù có nhiều ưu điểm, Mobile Money vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Quy định pháp lý sẽ quyết định mức độ phổ biến và niềm tin của người dùng. Nếu quy định pháp lý quá ít, có thể dẫn đến nhiều rủi ro về gian lận, rửa tiền, tài trợ cho khủng bố… Nhưng nếu quy định quá chặt, có thể làm tăng chi phí dịch vụ, hạn chế sự phát triển của Mobile Money.
Trên thế giới có hai mô hình quản lý Mobile Money phổ biến: Quản lý theo kiểu ngân hàng và quản lý theo mô hình nhà mạng di động (MNO).
Nếu quản lý theo kiểu ngân hàng, dịch vụ sẽ nằm dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý tài chính quốc gia. Các nhà cung cấp dịch vụ di động phải làm việc với ngân hàng. Người dùng phải tuân thủ các quy định về định danh khách hàng. Ưu điểm của mô hình này là an toàn hơn cho hoạt động thanh toán và người dùng dịch vụ. Nhưng hạn chế là các ngân hàng phải mở rộng quy mô, người dùng ở vùng sâu, vùng xa khó tiếp cận được, thủ tục pháp lý cũng phức tạo hơn.
Nếu quản lý theo mô hình nhà mạng di động, mỗi người dân sử dụng một số điện thoại đã được định danh đều có thể sử dụng dịch vụ. Độ phủ của ngành viễn thông lớn hơn rất nhiều so với các chi nhánh ngân hàng, nên khả năng phục vụ người dân cũng rộng hơn. Tuy nhiên, hạn chế của mô hình này là tính an toàn, bảo mật không cao. Nhà mạng buộc phải xử lý được tình trạng sim lậu, sim rác trước khi Mobile Money bùng nổ. Để giải quyết những rủi ro tài chính liên quan đến rửa tiền, gian lận. Các nhà cũng cấp viễn thông sẽ giới hạn lượng tiền được giao dịch trong một tháng.
Tuỳ vào đặc thù, mỗi quốc gia sẽ lựa chọn một mô hình riêng hoặc kết hợp linh hoạt các phương thức quản lý.
Ở Việt Nam, đơn vị được phép tham gia thí điểm Mobile Money là các doanh nghiệp có giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán ví điện tử và nhà mạng viễn thông. Dịch vụ sẽ được cung cấp đến người dùng có chứng minh thư nhân dân hoặc căn cước công dân, hay hộ chiếu, trùng với thông tin đăng ký thuê bao di động và được định danh, xác thực theo quy định. Thuê bao di động phải có thời gian kích hoạt và sử dụng liên tục trong ít nhất 3 tháng, tính đến thời điểm đăng ký mở, sử dụng dịch vụ.
Mỗi người chỉ được mở một tài khoản Mobile Money tại mỗi nhà mạng thực hiện thí điểm. Tổng hạn mức giao dịch cho một tài khoản loại này không được quá 10 triệu đồng một tháng cho tất cả giao dịch gồm rút tiền, chuyển tiền, thanh toán.
Việc thí điểm Mobile Money tại Việt Nam sẽ kéo dài trong hai năm, tính từ ngày 9/3/2021.
Link bài viết gốc: https://vnexpress.net/mobile-money-cong-nghe-tai-chinh-lam-thay-doi-the-gioi-4246544.html
Những quy định đầu tiên về Mobile Money (tiền di động) đã xuất hiện trong dự thảo thay thế Nghị định 101 về thanh toán không dùng tiền mặt.
Theo dự thảo, tiền di động được định nghĩa là tiền điện tử do tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán kinh doanh dịch vụ viễn thông phát hành và định danh khách hàng thông qua cơ sở dữ liệu thuê bao di động. Dịch vụ này, sau khi được Ngân hàng Nhà nước cấp phép, có thể dùng tài khoản viễn thông thanh toán các dịch vụ khác có giá trị nhỏ.
Dự thảo thay thế Nghị định 101 xếp tiền di động nằm trong loại dịch vụ hỗ trợ thanh toán, thuộc dịch vụ trung gian thanh toán. Theo đó, các đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông, trước hết, phải đáp ứng các tiêu chí về trung gian thanh toán để được cấp phép, bao gồm điều kiện về vốn, đề án hoạt động, các điều kiện về nhân sự, kỹ thuật,…
Trong phần giải trình, cơ quan điều hành cho biết, tiền di động là nội dung mới, cần thiết giúp người dân có thể thanh toán mọi lúc mọi nơi với thiết bị di động được kết nối Internet, đồng thời giúp thúc đẩy tài chính toàn diện.
Đối với nội dung này, Ngân hàng Nhà nước cho biết đã nhận được sự đồng thuận của một số Bộ, ngành, tuy nhiên để quản lý đòi hỏi cần đáp ứng các điều kiện kinh doanh chặt chẽ. Dù vậy, cơ quan điều hành cũng nêu rõ, cơ sở ban hành còn phụ thuộc vào tiến độ của dự thảo Luật Đầu tư trình Quốc hội.
Theo Hiệp hội di động toàn cầu (GSMA), bản chất của Mobile Money là chuyển đổi hình thức của tiền mặt sang tiền điện tử theo tỉ lệ 1:1. Theo đó, đơn vị cung cấp dịch vụ Mobile Money (ở đây có thể là nhà mạng) không phải là đơn vị phát hành tiền điện tử vì không tạo ra lượng tiền mới đưa vào lưu thông. Họ chỉ chuyển đổi hình thức của tiền mặt để khách hàng có thể sử dụng thanh toán.
Đại diện Ngân hàng Nhà nước trong những hội thảo gần đây đã nhận định, Mobile Money bản chất là eMoney, là ví điện tử nhưng không có tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, khác biệt lớn nhất giữa ví điện tử và Mobile Money là phần định danh khách hàng (KYC – Know your customer). Với ví điện tử, KYC do ngân hàng làm. Còn với Mobile Money, các công ty cung cấp dịch vụ phải tự làm. Như vậy, thách thức với các nhà mạng là kho dữ liệu khách hàng phải chính xách, phải làm xác thực như ngân hàng, tránh mạo danh…
Bên cạnh đó, quan điểm của Ngân hàng Nhà nước cũng là Mobile Money không được làm phát sinh lượng tiền tệ. Theo đó, số tiền công ty viễn thông nhận của khách phải được nạp tương ứng theo tỷ lệ 1:1.
Link bài viết gốc: https://vnexpress.net/mo-khoa-cho-mobile-money-4009083.html
Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước, Đề án thí điểm Mobile Money đang được lấy ý kiến và nếu được thông qua, các nhà mạng có thể triển khai ngay.
Vụ trưởng Thanh Toán (Ngân hàng Nhà nước) Phạm Tiến Dũng cho biết, phương án cho các doanh nghiệp viễn thông triển khai thí điểm Mobile Money đã được Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng hôm 4/4. Sau một tháng, Thủ tướng đã trả về, yêu cầu xin ý kiến các bộ và đang được Ngân hàng Nhà nước tiến hành.
Đối tượng triển khai Mobile Money là các công ty viễn thông đã được Ngân hàng Nhà nước cấp phép trung gian thanh toán. Như vậy, sau khi được Chính phủ đồng ý, 2 trên 3 đơn vị viễn thông lớn là Vinaphone và Viettel có thể tham gia ngay. Ông tiết lộ, Mobifone cũng đang trong quá trình xin cấp phép trung gian thanh toán.
Ông Dũng nói thêm, hạn mức thanh toán dự kiến cho Mobile Money là 10 triệu đồng (hơn 400 USD) một tháng, trong khi ở các nước khác trung bình khoảng 206 USD một tháng. “Hạn mức bước đầu như vậy, sau sẽ điều chỉnh phù hợp cho thị trường phát triển”, ông Dũng nói tại hội thảo “Tiền điện tử trên thuê bao di động nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện” hôm 23/5.
Đại diện Vụ Thanh toán Ngân hàng Nhà nước cho rằng, Mobile Money bản chất là eMoney, là ví điện tử nhưng không có tài khoản ngân hàng. “Nếu tách ra, định nghĩa ví điện tử – một tài khoản định danh điện tử lưu trữ giá trị số tiền khách hàng nạp vào tương ứng với tỉ lệ 1:1, nạp bằng cách nào chúng ta không biết thì nó là Mobile Money”, ông cho hay.
Tuy nhiên, khác biệt lớn nhất của hai loại hình này là phần định danh khách hàng (KYC – Know your customer). Với ví điện tử, KYC do ngân hàng làm. Còn với Mobile Money, các công ty cung cấp dịch vụ phải tự làm. Như vậy, thách thức với các nhà mạng là kho dữ liệu khách hàng phải chính xách, phải làm xác thực như ngân hàng, tránh mạo danh…
Quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là Mobile Money không được làm phát sinh lượng tiền tệ. Theo đó, số tiền công ty viễn thông nhận của khách phải được nạp tương ứng theo tỷ lệ 1:1. Ông Dũng ví dụ, 100 đồng nạp vào qua đại lý là khách hàng có 100 đồng trong ví, không phải có chuyện nạp 90 đồng lại được 100 đồng trong ví. “Chúng ta không bao giờ được làm, như thế là phát hành tiền, dùng đòn bẩy kinh tế. Luôn phải tuân thủ tỷ lệ 1:1”, Vụ trưởng khẳng định.
Quyền lợi của khách hàng khi sử dụng Mobile Money cũng phải được đảm bảo. Ở một số quốc gia, tiền của khách hàng được dùng vào nhiều việc, đảm bảo bằng nhiều phương thức như gửi ngân hàng, đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro thấp.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước dự kiến quy định, tổng số dư của Mobile Money phải tương ứng với số dư công ty ví ấy gửi đảm bảo tại ngân hàng và chỉ sử dụng tài khoản đảm bảo ấy cho mục đích sử dụng ví. Công ty Mobile Money có thể thua lỗ, phá sản, tiền khách hàng nạp vào ví vẫn được đảm bảo ở ngân hàng.
Ông Dũng cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất với thanh toán tại Việt Nam là hành vi thói quen. “Mobile Money sẽ là một kênh giáo dục tài chính. Nhờ nó, người dân có thể biết sử dụng dịch vụ tài chính, gián tiếp giúp họ hiểu và nhanh chóng sử dụng, thúc đẩy dịch vụ ngân hàng. Nó làm cho miếng bánh lớn lên, không ảnh hưởng tới bên nào”, Vụ trưởng Thanh toán nhận định.
Nhận định này rất giống với quan điểm của Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng. Ông Hùng cho rằng, ngân hàng cũng không phải quá lo lắng vì Mobile Money với các giao dịch nhỏ chính là sự đào tạo người dân để trở thành khách hàng sau này cho ngân hàng. Lãnh đạo Bộ Thông tin & Truyền thông cũng tin tưởng, Mobile Money đẩy mạnh việc tiếp cận các dịch vụ tài chính.
Link bài viết gốc: https://vnexpress.net/viettel-vnpt-co-the-sap-duoc-thu-nghiem-mobile-money-3928215.html
Nhà mạng giúp người dân thanh toán món tiền nhỏ, theo Bộ trưởng TT&TT, chính là cách để nhà băng có khách hàng cho các giao dịch lớn sau này.
Mobile Money là các dịch vụ kết nối khách hàng về mặt tài chính thông qua mạng di động, là hình thức mà theo ông Nguyễn Mạnh Hùng – Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông – sẽ tạo ra đột phá về thanh toán điện tử tại Việt Nam.
Nếu Việt Nam cho phép thử nghiệm Mobile Money, các nhà mạng cũng có thể cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử thông qua những dịch vụ chuyển tiền qua mạng di động, giữa các thuê bao… Như vậy, các nhà mạng được cho là những “đối thủ” mới của ngân hàng trong lĩnh vực này.
Tại hội thảo “Tiền điện tử trên thuê bao di động nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện” sáng nay (23/5), Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, các nhà băng không cần phải lo ngại về vấn đề này.
“Ngân hàng cũng không phải quá lo lắng vì Mobile Money với các giao dịch nhỏ chính là sự đào tạo người dân để trở thành khách hàng sau này cho ngân hàng”, ông Hùng nói.
Ông tin tưởng, Mobile Money đẩy mạnh việc tiếp cận các dịch vụ tài chính. Bộ trưởng cho biết, tại Kenya, sau 3 năm triển khai, tỷ lệ sử dụng ngân hàng tăng 19%, chính nhờ vào sự phát triển của dịch vụ Mobile Money.
Thực tế, người nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa… đang bị gạt ra ngoài hệ thống tài chính chính thống. Mobile Money được kỳ vọng là giải pháp giúp họ tiếp cận các dịch vụ (có trả phí) mang tính đổi đời trên nền tảng Internet như y tế, giáo dục, tài chính, việc làm, an sinh xã hội.
Theo Hiệp hội di động toàn cầu (GSMA), bản chất của Mobile Money là chuyển đổi hình thức của tiền mặt sang tiền điện tử theo tỉ lệ 1:1. Theo đó, đơn vị cung cấp dịch vụ Mobile Money (ở đây có thể là nhà mạng) không phải là đơn vị phát hành tiền điện tử vì không tạo ra lượng tiền mới đưa vào lưu thông. Họ chỉ chuyển đổi hình thức của tiền mặt để khách hàng có thể sử dụng thanh toán. Hình thức này tương tự thẻ ATM, khi khách hàng nộp tiền mặt để nhận được một khoản tiền điện tử có giá trị tương đương.
Chia sẻ về vai trò của Mobile Money, ông Hùng kể, tại các nước đang phát triển, khoảng 15% người trưởng thành có doanh thu từ bán nông sản, nhưng đa số nhận tiền mặt – một hình thức rủi ro, không hiệu quả và bất tiện khi thu tiền.
Nhưng họ cũng không thể bán nông sản cho một người ở xa nên theo ông Hùng, việc thanh toán qua thuê bao di động giúp những người ở thành phố có thể mua và trả tiền cho nải chuối từ một vườn cây ở bất kỳ thôn bản nào trên toàn quốc. Do vậy, người nông dân cũng bán được giá cao hơn.
Không chỉ vậy, Mobile Money sẽ góp phần bùng nổ các startup Việt Nam, theo Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông. Ông lý giải, Mobile Money sẽ làm xuất hiện rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực số, những công ty khởi nghiệp công nghệ. Đây sẽ là phương thức thanh toán phổ biến nhất được chấp nhận bởi các công ty khởi nghiệp.
Việt Nam sẽ là nước thứ 91 có Mobile Money, nếu năm nay nền tảng này được cấp phép. “Thêm một lần nữa, Việt Nam lại không phải các nước thuộc nhóm đầu chấp nhận một nền tảng mới do công nghệ tạo ra”, ông nói.
Nhưng việc đi sau vẫn có những thuận lợi nhất định. Việt Nam là có thể học hỏi từ 90 nước đã triển khai khi hiệu quả đã nhìn thấy rõ và khung pháp lý cũng đã hình thành ở các nước họ.
“Câu chuyện ở đây là công nghệ có thể giúp giải quyết rất nhiều vấn đề của đất nước, nhưng chúng ta phải thay đổi, dám thay đổi, dám chấp nhận các mô hình mới”, ông Hùng cho hay.
Link bài viết gốc: https://vnexpress.net/ong-nguyen-manh-hung-ngan-hang-khong-can-lo-ngai-ve-mobile-money-3927885.html
Bài học thành công từ các quốc gia khác về Mobile Money
M-Pesa is a phone-based peer to peer money transfer service launched by Safaricom, Kenya’s largest telecom provider, in 2007. According to a Kenyan government report published from 2012, just five years after launch, there were 19.5 million mobile money users in Kenya (representing 83% of Kenya’s adult population), transferring ~US $8 billion per year (~24% of Kenyan GDP).
Banks and telecoms around the world have initiated hundreds of mobile-money deployments in the past six years attempting to replicate M-Pesa’s widespread adoption, but with limited success. Only a handful of these initiatives have even reached sustainable scale.
Although some of M-Pesa’s initial success could be attributed to a uniquely favorable context for mobile-payments (strong customer need, welcoming regulatory environment, support from banks, strong brand awareness of Safaricom), its rapid and sustained growth was only possible due to a thoughtful operating model design, particularly regarding M-Pesa’s “agent network.”
Let’s have a look at what M-Pesa is, how it works, and the key operating model decisions Safaricom made to ensure M-Pesa’s long-term success.
What is M-Pesa and how does it work:
Customers who sign up for the M-Pesa service can convert between e-cash and real cash (these are called cash-in / cash-out transactions), and can transfer e-cash from their account to that of another account holder via SMS.
Cash-in / cash-out operations take place at one of many designated M-Pesa retail outlets, also known as “agents”. These agents are not employed by Safaricom, but are simply retailers / regular businessmen and women that are ‘authorized’ to trade e-cash for real cash.
Business Model
M-Pesa creates economic value for Safaricom in two primary ways:
Safaricom pays commission to its “agents”, usually on a monthly basis, based on metrics such as transactions per branch, customers per branch, and quantities transacted, etc.
Because it takes agents a couple months to ‘ramp up’ at their branch by attracting M-Pesa customers and convincing them to start transacting, the business model of M-Pesa incurs significant up-front costs and is one of the reasons many mobile-money deployments fail in the early days.
Mobile-Money becomes profitable only when it goes viral. According to a McKinsey report, to make mobile money for the unbanked commercially viable, operators and telco’s like Safaricom “must sign up 15 to 20 percent of the addressable market.”
Source: http://www.mckinsey.com/insights/telecommunications/capturing_the_promise_of_mobile_banking_in_emerging_markets
Operating Model and Key Decisions
1. Grew agent network same pace as customer base
Given the up-front costs of acquiring agents, it is tempting for mobile money providers to want to take short cuts and minimize the agent-to-customer ratio. However, this does not set an individual agent up for success.
If Safaricom were to recruit too few agents, customers would find M-Pesa difficult to use and difficult to access.. On the other hand, if there were too many agents, many of them would not be able to generate enough business to cover the cost of managing their e-cash and cash liquidity. As a result, they would stop maintaining their electronic money float and cash balances.
M-Pesa’s success lies in the fact that they grew their agent network at the same pace as their customer base, keeping transactions per agent per month steady at around 1,000 / agent / month.
2. Invest time and money in recruiting agents with the right skills and incentives.
Safaricom realized early on that they could not use their pre-existing airtime dealers as agents, since the airtime dealers were disincentivized to sell mobile-money. Mobile money would cannibalize offline airtime purchases since consumers would start topping up their phone airtime online / via the mobile money app instead of showing up to the Agent’s stall.
So, they set out to create their own Agent network. They talked to mom-and-pop stores and retailers to determine level of education, conversation ability, business acumen, and once they recruited an agent, they offered training on customer service, how to manage liquidity with cash and e-cash, etc. Even post-hiring, Safaricom continued to monitor agents through site visits once every two weeks at each branch.
3. Geographically spread out agents to ensure proximity to consumers.
According to a McKinsey report on Mobile Money, proximity of nearest agent makes a significant impact on transaction volumes. “When a cash agent is more than 15 minutes away, mobile money has relatively little appeal, and customers use it once or twice a month. But when the agent is less than 10 minutes away, usage rises to 10 times a month—and for those within 2 minutes of an agent, to 30 times a month.”
Safaricom spread its agents out across Kenya so as to truly enable network effects and enable Kenyans to send e-cash to their family members and friends even if they did not live in the same geography.
4. Hub-and-spoke for Agents and Super-Agents
By 2012, Safaricom had over 40,000 agents. Rather than interacting directly with each of these agents, the company selected some agents to be “super-agents” which would have higher e-wallet sizes and therefore would buy greater e-cash from Safaricom up-front and then sell this e-cash to other sub-agents in their geography. This way, Safaricom kept its operations lean and only had to transact with the few superagents, who would in turn transact with sub-agents who would transact with the end-customers.
The super-agents became the hubs, the sub-agents became the spokes, ensuring ‘last-mile delivery’ of e-cash services to M-Pesa end-customers.
References:
http://www.mckinsey.com/insights/social_sector/mobile_money_getting_to_scale_in_emerging_markets
http://www.economist.com/node/16319635
http://blogs.ft.com/beyond-brics/2012/05/28/mobile-money-kenya-good-india-bad/
http://www.economist.com/blogs/economist-explains/2013/05/economist-explains-18
Link bài gốc: https://digital.hbs.edu/platform-rctom/submission/m-pesa-a-mobile-money-success-story-from-kenya/#
Keynote speech: The Role of Government in Driving Financial Inclusion in Nigeria workshop
Your highness, Senator, Madame Ladipo, excellencies, ladies and gentlemen, I am pleased to be back in your country to join you in this important discussion regarding the way forward for financial inclusion.
I have to say after the presentation by Madame Ladipo, I don’t have much to add. Your diagnosis is very thorough. You have a great asset in that you have a great amount of data. The evidence is there for us to work.
I was last welcomed to Nigeria five years ago for the launch of your financial inclusion strategy. Nigeria was one of the earliest adopters of financial inclusion policymaking—and for excellent reasons. In 2012 only two out of five adults had access to basic financial tools like savings, payments, credit, and insurance services that people need to protect themselves from setbacks and work their way out of poverty. By adopting a strategy to expand financial inclusion, Nigeria embraced a powerful tool to expand opportunity for all.
And you are not alone. Today, your perspective on financial inclusion is shared by governments, economists, business people, and development experts around the whole world. Also, the UN’s Sustainable Development Goals are marked by a broad recognition of financial inclusion for combatting poverty, hunger, promoting health, gender equality, economic growth, and more. Even from a macroeconomic viewpoint, a recent IMF study found that financial inclusion contributes to financial stability, to GDP growth, and income inequality reduction.
Nigeria’s 2012 financial inclusion strategy set an ambitious target of reaching 80 percent of adults by 2020. Progress has been notable: financial inclusion more than doubled between 2008 and 2016, and today almost half of adults participate in the formal financial sector. But the EFInA report also shows a recent drop in accounts has happened and progress overall has stalled. In addition, women’s financial inclusion remains lower than men by 12 percentage points. If you look at the banked population, the gap is 16 percentage points. And regional differences are significant—only a quarter of Nigerians in the north have accounts, compared with three-quarters in the southwest.
Nigeria’s leaders are taking strong action to address these gaps. I am particularly pleased that steps are being taken to rethink and re-energize your national financial inclusion strategy.
That is very positive as we know that countries with financial inclusion strategies make faster progress than others that do not have them. But what makes a good strategy?
And I am happy to say with my meetings yesterday with the vice president, he expressed his full support to this endeavor.
As Nigeria begins the process of revising its national strategy, I would like to emphasize the opportunities that new technologies offer to expand access to unserved populations. At the moment, financial access is predominantly available in urban areas but 62 percent of your population is rural–where very little access is available.
Utilizing technology and expanding mobile money is one of the most promising tools to address this gap. It allows users to access their accounts remotely using a mobile phone. Currently Nigeria has 88 million unique mobile phone subscribers—more than half of all adults. This contrasts to 27 million bank customers. Just think of the powerful platform mobile phones offer for advancing financial inclusion!
Mobile money is not just a technology strain, it is about development impact.
The second point I’d like to discuss is closely related to mobile money and that is about expanding finance through agent networks. Typically, agents are local shopkeepers who work on behalf of financial service providers mostly using technology such as mobile phones or small card readers to provide basic financial services such as cash-in, cash-out, payments and money transfers. Agents are far cheaper than bank branches or ATMs to operate, especially in rural areas, and they are usually trusted by the local community. They can also be used to deliver government social payments more efficiently.
Today we have about 42,000 active access points in Nigeria but we probably need five times this number to bridge the financial inclusion gap. We are talking about 200,000. Post office location additions would be a small part of it. So it is very important, reaching 200,000 access points.
A large scale deployment of agents is the most cost effective and scalable way for Nigeria to expand access rapidly. Ghana, for example, now has 107,000 agents actively providing financial services to almost 63 percent of a population of 28 million.
In my travels I’ve seen how agent networks operate in many countries. Success requires several ingredients: conducive regulations; the right business model so agents can be sustainable; customer-centric products designed to encourage active usage; and reliable connectivity.
A number of countries, for example, have found that mobile network operators have the kind of agent networks that enable economies of scale. They can also have valuable expertise in serving low-income customers, understanding their needs and handling very large volumes of small e-payments.
The combination of a strong agent network and mobile money could have a tremendous impact on financial inclusion and on overall economic development of Nigeria.
So from the regulatory angle, what steps can you take?
First, global experience shows that allowing mobile network operators to provide mobile money services can be a game changer. Currently only 2 percent of Nigerian adults have a mobile money account. At the same time, regulations disallow mobile operators from offering financial services. Looking again at Ghana, one of the key ingredients for their success was the regulatory change made in 2015 that opened up mobile money to mobile operators.
A decade of experience throughout the world has shown us how to develop regulatory frameworks that give a significant role for mobile network operators while respecting the stability and the integrity of the financial sector, and protecting customers and the market structure.
Second, regulators need to take into account how difficult it is for the agent network business to work for all parties. Policymakers set the rules, but it is the private sector that has to make the business work. A test-and-learn approach is needed to promote innovative business models. Not every detail of the relationship between providers and agents needs to be pre-determined in a regulatory framework. Doing so can limit financial viability and scalability, therefore not allowing people to access financial services.
The steps I’ve just described have the potential to make a world of difference for financial inclusion and overall development in Nigeria.
Especially if you prioritize development of an inclusive retail payment system that can serve as a basis to distribute the rest of the financial services—that means credit, insurance, savings, etc.
From Pakistan, Brazil, Tanzania, and beyond, many countries around the globe have followed a similar path, strengthening strategies, opening up markets to mobile operators, and building strong agent networks. The process is complex but there are many examples of success that can provide you with invaluable guidance. You already know what you have to gain—inclusive growth, greater economic equality, improved lives for millions of households. I really look forward to supporting you as you create your own success story and your path to inclusive growth.
Link bài gốc: https://www.unsgsa.org/speeches/creating-nigerias-success-story-mobile-money-agents-and-way-forward-financial-inclusion
Công tác chuẩn bị để xây dựng một dự án Mobile Money
+ Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng quy trình (sơ đồ và diễn giải các bước thực hiện, quy trình dòng tiền từ lúc khởi tạo giao dịch đến lúc quyết toán nghĩa vụ giữa các bên liên quan) đối với các nghiệp vụ đã quy định tại mục III Quyết định này.
+ Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải thành lập một Đơn vị/bộ phận riêng để vận hành, triển khai việc cung ứng dịch vụ Mobile-Money và phải có phương án cụ thể để quản lý tách bạch tài khoản Mobile-Money với tài khoản của SIM thuê bao di động (là tài khoản sử dụng cho việc cung cấp và sử dụng dịch vụ thông tin di động, dịch vụ viễn thông).
(i) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải mở tài khoản đảm bảo thanh toán tại Ngân hàng thương mại và số dư trên các tài khoản đảm bảo thanh toán phải được duy trì không thấp hơn so với tổng số dư tất cả các tài khoản Mobile-Money của các khách hàng tại cùng một thời điểm; xây dựng cơ chế xử lý rủi ro về thanh khoản để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ Mobile-Money phải được tách bạch, riêng biệt với các tài khoản thanh toán khác của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm mở tại Ngân hàng thương mại (tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ Ví điện tử, hỗ trợ thu hộ, chi hộ, tài khoản thanh toán phí, tài khoản trả lương và các tài khoản phục vụ cho mục đích khác của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm). Ngân hàng thương mại có trách nhiệm theo dõi, quản lý để đảm bảo Doanh nghiệp thực hiện thí điểm chỉ sử dụng tài khoản đảm bảo thanh toán cho các nghiệp vụ của dịch vụ Mobile-Money, không sử dụng cho các mục đích khác và tách bạch, riêng biệt với các tài khoản thanh toán khác của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm mở tại Ngân hàng thương mại;
(ii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng công cụ để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Công an có thể truy cập hệ thống để khai thác thông tin, dữ liệu, giám sát theo thời gian thực tổng số dư của các tài khoản Mobile-Money và số tiền trên các tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ Mobile-Money của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm mở tại Ngân hàng thương mại; trên công cụ phải có chức năng để cơ quan quản lý giám sát việc tuân thủ của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm đối với các hành vi bị cấm quy định tại mục IV Quyết định này. Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải đảm bảo phản ánh đầy đủ thông tin về các tài khoản Mobile-Money của khách hàng trên công cụ và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của các thông tin cung cấp trên công cụ.
(i) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm chịu trách nhiệm KYC chính xác khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile-Money: Xây dựng công cụ để quản lý rủi ro và quy trình KYC đảm bảo chỉ các khách hàng đủ điều kiện quy định tại khoản 2 mục II Quyết định này được đăng ký và sử dụng dịch vụ Mobile- Money; quyết định việc gặp mặt trực tiếp hoặc không gặp mặt trực tiếp khách hàng khi khách hàng lần đầu đăng ký mở và sử dụng dịch vụ Mobile-Money. Trường hợp không gặp mặt trực tiếp khách hàng, Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng và ban hành quy trình, thủ tục đăng ký mở và sử dụng dịch vụ Mobile-Money bằng phương thức điện tử phù hợp với quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền, phải đảm bảo có và áp dụng các biện pháp, hình thức và công nghệ để nhận biết, định danh khách hàng; chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính chính xác của thông tin khách hàng; xây dựng quy trình xác thực đối với mỗi giao dịch của tài khoản Mobile-Money; xây dựng phương án quản lý đối với trường hợp một cá nhân sử dụng nhiều tài khoản Mobile-Money để thực hiện việc chuyển tiền, thanh toán giữa các cá nhân, Đơn vị chấp nhận thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam; có biện pháp hạn chế, loại bỏ tình trạng SIM có thông tin không chính xác, không đầy đủ trên thị trường;
(ii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm xây dựng quy trình, công cụ và hướng dẫn, đào tạo các nhân viên của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm, điểm kinh doanh thực hiện thủ tục nhận biết khách hàng, xác minh, cập nhật thông tin khách hàng và chịu trách nhiệm về tính chính xác đối với việc KYC của các điểm kinh doanh.
Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng các nguyên tắc chung và quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật hiện hành; thiết lập cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông) về các tài khoản Mobile-Money có dấu hiệu liên quan đến hoạt động phạm tội, có hành vi vi phạm pháp luật, các giao dịch bất thường, đáng ngờ (thông tin cung cấp bao gồm toàn bộ thông tin lưu trữ về tài khoản Mobile-Money); xây dựng cơ chế tạm khóa/đóng băng các tài khoản Mobile-Money vi phạm ngay khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật.
(i) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng các tiêu chí cụ thể đánh giá năng lực (tài chính, cơ sở vật chất, nhân sự) của các điểm kinh doanh (trong đó, các điểm kinh doanh là các điểm cung cấp dịch vụ viễn thông có địa chỉ xác định do Doanh nghiệp viễn thông thực hiện thí điểm thiết lập hoặc các điểm cung cấp dịch vụ viễn thông khác là pháp nhân được Doanh nghiệp viễn thông thực hiện thí điểm ký hợp đồng ủy quyền), làm cơ sở cho việc xác định hạn mức giao dịch ngày, hạn mức giao dịch tháng của từng điểm kinh doanh. Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải có hợp đồng ủy quyền với các điểm kinh doanh là pháp nhân khác được Doanh nghiệp thực hiện thí điểm ủy quyền; có cơ chế kiểm soát và chịu trách nhiệm toàn diện đối với mọi hoạt động và rủi ro phát sinh tại các điểm kinh doanh của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm;
(ii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải trang bị, triển khai áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) tại các điểm kinh doanh để nhận biết và xác thực chính xác khách hàng (nhận diện khuôn mặt, mống mắt,…) khi đăng ký và sử dụng dịch vụ Mobile-Money; Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải bảo đảm các điểm kinh doanh không chuyển giá trị thẻ thanh toán dịch vụ thông tin di động sang tài khoản Mobile-Money, không để xảy ra tình trạng mở tài khoản Mobile-Money tràn lan, các biến tướng và lợi dụng dịch vụ Mobile-Money để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật;
(iii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng cơ chế kiểm soát các giao dịch tiền mặt (nạp, rút tiền mặt vào/ra tài khoản Mobile-Money) phát sinh tại các điểm kinh doanh đảm bảo nhận biết và kiểm soát được chính xác số tiền đã nhận của khách hàng; đối soát với tổng số dư tài khoản Mobile- Money của khách hàng; đảm bảo số tiền các điểm kinh doanh đã nhận của khách hàng phải được nạp tương ứng theo tỷ lệ 1:1 vào tài khoản Mobile- Money của khách hàng. Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải chịu trách nhiệm trong trường hợp xảy ra mất tiền trong tài khoản Mobile-Money của khách hàng (trừ các trường hợp lỗi phát sinh từ phía khách hàng) hoặc số tiền được ghi có vào tài khoản Mobile-Money không tương ứng theo tỷ lệ 1:1 với số tiền khách hàng đã nạp;
(iv) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải thông báo công khai danh sách các điểm kinh doanh trên trang thông tin điện tử, ứng dụng của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm và tại các điểm kinh doanh nơi khách hàng có thể tiếp cận và thực hiện giao dịch;
(v) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, yêu cầu về nâng cao, đào tạo nghiệp vụ cho nhân sự tại các điểm kinh doanh. Yêu cầu các điểm kinh doanh gửi báo cáo định kỳ và báo cáo ngay các giao dịch bất thường, đáng ngờ cho Doanh nghiệp thực hiện thí điểm;
(vi) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng cơ chế đảm bảo an toàn thanh toán của các điểm kinh doanh; xây dựng quy trình xử lý giao dịch giữa Doanh nghiệp thực hiện thí điểm và các điểm kinh doanh đối với từng hoạt động; quy trình đối soát, thanh, quyết toán; quy trình xử lý tra soát, khiếu nại, tranh chấp của khách hàng đối với giao dịch phát sinh tại các điểm kinh doanh.
(i) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm có trách nhiệm: (i) lựa chọn, ký kết Hợp đồng với Đơn vị chấp nhận thanh toán đảm bảo Đơn vị chấp nhận thanh toán (các cửa hàng, đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ chấp nhận sử dụng tài khoản Mobile-Money để thanh toán) kinh doanh các ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) giám sát, kiểm tra đối với các Đơn vị chấp nhận thanh toán trong quá trình thực hiện Hợp đồng; (iii) quy định nội bộ về thủ tục nhận biết, xác minh Đơn vị chấp nhận thanh toán, phân loại theo mức độ rủi ro; (iv) quy định về việc nhận tiền thanh toán từ cung cấp hàng hóa, dịch vụ giữa Doanh nghiệp thực hiện thí điểm với Đơn vị chấp nhận thanh toán;
(ii) Các doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải có Hợp đồng theo quy định của pháp luật với Đơn vị chấp nhận thanh toán về việc trở thành điểm chấp nhận thanh toán bằng tài khoản Mobile-Money.
(i) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải có hệ thống đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 theo quy định của pháp luật hiện hành. Hạ tầng công nghệ thông tin và các giải pháp phục vụ cung ứng dịch vụ Mobile-Money phải đảm bảo hoạt động liên tục, an toàn trong suốt quá trình triển khai thí điểm dịch vụ Mobile-Money;
(ii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải có công cụ, giải pháp phù hợp xác định được chính xác địa chỉ giao thức Internet (Internet Protocol – IP), thuê bao sử dụng để có thể truy vết được đối tượng khách hàng thực sự sử dụng tài khoản Mobile-Money;
(iii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải có hệ thống lưu trữ lịch sử giao dịch Mobile-Money phát sinh (như: giao dịch nạp/rút, chuyển tiền và thanh toán hàng hóa, dịch vụ); hệ thống lưu trữ thông tin định danh khách hàng, thông tin định danh thiết bị, địa chỉ IP (trừ giao dịch USSD), địa chỉ kiểm soát truy cập phương tiện truyền thông – Media Access Control – MAC (trừ giao dịch USSD), Mã số nhận dạng thiết bị di động quốc tế (International Mobile Equipment Identity – IMEI), thời gian giao dịch, nội dung giao dịch, tài khoản gửi, tài khoản nhận, số dư, vị trí giao dịch,… từ khi khách hàng mở đến khi đóng tài khoản, trong đó có các thông tin truy vết người sử dụng dịch vụ (đối với các tài khoản Mobile-Money đã đóng vẫn phải lưu trữ thông tin tối thiểu 02 (hai) năm); đồng thời phải có bản sao lưu các thông tin lưu trữ nhằm phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra và cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Thông tin địa chỉ IP, thời gian đăng nhập phải lưu giữ tối thiểu 02 (hai) năm. Đối với các tài liệu kế toán, Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải lưu trữ theo quy định của Luật Kế toán.
(i) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng khi triển khai thí điểm dịch vụ Mobile-Money;
(ii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng quy định, cơ chế về xử lý, giải quyết tra soát, khiếu nại, tranh chấp của khách hàng theo quy định hiện hành;
(iii) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng phương án xử lý đối với trường hợp tài khoản Mobile-Money của khách hàng vẫn còn tiền nhưng số thuê bao di động đã bị Doanh nghiệp thực hiện thí điểm thu hồi và cấp cho người khác sử dụng hoặc thuê bao di động đã chuyển sang sử dụng dịch vụ thông tin di động của Doanh nghiệp viễn thông khác theo thủ tục chuyển mạng giữ số thuê bao;
(iv) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải thông báo đầy đủ, chính xác, rõ ràng và công khai tới khách hàng về các dịch vụ được triển khai; mức phí; điều khoản và các điều kiện; quyền và lợi ích của khách hàng, trách nhiệm của Doanh nghiệp thực hiện thí điểm để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng sử dụng dịch vụ;
(v) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng quy định về việc mã hóa và kiểm soát truy cập thông tin khách hàng, thông tin giao dịch để đảm bảo an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu khách hàng do Doanh nghiệp thực hiện thí điểm thu thập; lưu trữ trên hệ thống dữ liệu về các thông tin liên quan đến tài khoản, số dư tài khoản Mobile-Money của khách hàng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng;
(vi) Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải quy định và công khai rõ ràng về quyền và trách nhiệm của khách hàng khi khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ Mobile-Money.
+ Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ; đánh giá rủi ro và biện pháp quản lý, xử lý rủi ro cụ thể.
+ Doanh nghiệp thực hiện thí điểm phải xây dựng hệ thống theo dõi, kiểm soát để phản ánh chính xác doanh thu phát sinh từ việc cung ứng dịch vụ Mobile-Money để có cơ sở xác định nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật về thuế và các văn bản hướng dẫn.