XU HƯỚNG CỦA HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH TẠI VIỆT NAM
Trần Hoàng Cẩm Tú1, Vũ Thị Liên Hợp2,
12Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Email: lienhop8910@gmail.com
Tóm tắt: Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang có những phát triển tích cực nhưng cũng đang gặp phải những áp lực lớn về vấn đề ô nhiễm môi trường. Điều này khiến chúng ta cần phải đặt ra vấn đề về việc có hay không việc phải thay đổi hành vi trong cả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng để hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu đã được thực hiện trước đây, trong bài nghiên cứu này tác giả đã tổng hợp một số cơ sở lý luận về hành vi tiêu dùng xanh và thực trạng tiêu dùng xanh hiện nay ở Việt Nam. Xu hướng tiêu dùng xanh hiện nay ở Việt Nam đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của nhiều đối tượng trong xã hội. Tuy nhiên để mở rộng hành vi tiêu dùng xanh đang còn vấp phải nhiều trở ngại liên quan đến thói quen tiêu dùng và nguồn lực kinh tế của người tiêu dùng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng tiêu dùng tác giả đề xuất một số giải pháp giúp thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh ở Việt Nam.
Từ khóa: hành vi tiêu dùng xanh, phát triển bền vững, sản phẩm xanh, Việt Nam.
1. Giới thiệu
Xu hướng tiêu dùng và sản xuất xanh hiện nay đang được xem là xu hướng tiêu dùng của thế giới khi vấn đề môi trường hiện nay đang dần trở thành mối quan tâm lớn nhất của nhiều quốc gia trên thế giới. Tiêu dùng hiện nay ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường; sự hợp tác giữa các nhà sản xuất, người tiêu dùng và các bên liên quan khác có thể mang lại các giải pháp bền vững hơn trong hệ thống sản xuất – tiêu thụ. Trong bối cảnh hiện nay, tích hợp nỗ lực của các bên liên quan là vấn đề then chốt để thúc đẩy tiêu dùng xanh trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng (Hoàng, 2016).
Hiện nay, khái niệm về tiêu dùng xanh khá phổ biến ở các nước phát triển và bước đầu thu hút được sự chú ý, quan tâm ở các nước đang phát triển, các nghiên cứu về cá nhân và ý thức tiêu dùng ngày càng tăng. Là một trong những quốc gia đang phát triển ở khu vực châu Á, Việt Nam cần nghiên cứu chính sách cũng như kinh nghiệm quốc tế để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa xu hướng tiêu dùng xanh trong nước. Trong nhiều năm trở lại đây, Chính phủ Việt Nam nỗ lực rất nhiều trong việc thực hiện các chính sách và nhiều chương trình cũng đã được thực hiện nhằm chuyển đổi cơ cấu công nghiệp hiện nay ở nước ta, việc này giúp cho quy trình sản xuất sạch phát triển và đem lại nhiều hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện nay chỉ có thể làm giảm các tác động đến môi trường bằng các biện pháp liên quan đến việc sản xuất chứ chưa giải quyết được các tác động đang ảnh hưởng đến môi trường từ việc lựa chọn và sử dụng các sản phẩm đó của người tiêu dùng (Hoàng, 2016).
2. Lý thuyết: Các khái niệm cơ bản
Sản phẩm xanh
Theo Shamdasani và cộng sự (1993), sản phẩm xanh là sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người mà không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Những sản phẩm xanh này rất thân thiện với môi trường. Theo Chen và Chai (2010) cho rằng các sản phẩm xanh sử dụng những nguyên vật liệu an toàn cho môi trường, có thể tái chế và đòi hỏi ít bao bì bên ngoài. Ở Việt Nam, dựa trên nghiên cứu của (2019), một sản phẩm được xem là sản phẩm xanh nếu đáp ứng được một trong bốn tiêu chí sau:
- Sản phẩm đó được tạo ra từ các vật liệu có tính thân thiện với môi trường (1);
- Sản phẩm đem lại những giải pháp an toàn cho môi trường và sức khỏe thay cho các sản phẩm độc hại truyền thống (2);
- Sản phẩm giúp làm giảm tác động đến môi trường trong quá trình sử dụng (3);
- Sản phẩm có thể tạo ra một môi trường thân thiện và an toàn đối với sức khỏe (4).
Sản phẩm nông nghiệp xanh có thể là sản phẩm khí sinh học trong chăn nuôi hoặc những sản phẩm hữu cơ được sản xuất theo quy trình thân thiện với môi trường, không có sự can thiệp của các chất hóa học độc hại. Sản phẩm công nghiệp xanh bao gồm nhóm sản phẩm tiết kiệm năng lượng, nhóm sản phẩm gắn Nhãn xanh (nhãn sinh thái) và nhóm sản phẩm năng lượng tái tạo. Các quan niệm trên cho thấy khái niệm về sản phẩm xanh rất đa dạng: bao gồm những sản phẩm mà trong suốt vòng đời của nó từ sản xuất, sử dụng đến thải bỏ có một trong các đặc tính sau:
- Trong sản xuất, sử dụng ít nguyên nhiên vật liệu, giảm thiểu về bao gói, không chứa chất độc hại cho con người và môi trường (1);
- Trong sử dụng, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, an toàn sức khỏe người tiêu dùng (2);
- Trong xử lý rác thải, có thể tái sinh, tái sử dụng và ít tác động tiêu cực đến môi trường (3).
Tiêu dùng xanh
Những khai niệm liên quan đến tiêu dùng xanh xuất hiện đầu tiên vào những năm 1970 ở Hoa Kỳ. Các nghiên cứu ban đầu tập trung vào việc sử dụng năng lượng và các vấn đề ô nhiễm có liên quan đến một phạm vi hẹp trong các ngành công nghiệp, những nghiên cứu này tập trung chủ yếu vào việc tái chế rác thải và sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng. Tuy nhiên sau những năm 1990, khái niệm về tiêu dùng xanh ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn trên thế giới. Nghiên cứu của Mainieri và cộng sự (1997) cho rằng tiêu dùng xanh là các hành vi mua sắm các sản phẩm có tính chất thân thiện và có lợi ích đối với môi trường. Theo Chan (2001) cho rằng tiêu dùng xanh thể hiện sự trách nhiệm của người tiêu dùng đối với việc bảo vệ môi trường thông qua việc lựa chọn các sản phẩm thân thiện, có cách tiêu dùng và xử lý rác thải một cách hợp lý. Cho đến ngày nay khái niệm về tiêu dùng xanh không còn chỉ dừng lại ở các hành vi mua sắm xanh mà còn bao gồm là chuỗi các hành vi được nhìn nhận dưới quan điểm phát triển bền vững: mua thực phẩm sinh thái, sản phẩm tái chế – tái sử dụng, sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng và sử dụng các phương tiện giao thông có tính chất thân thiện với môi trường (Nguyễn & Nguyễn, 2016).
Các quan niệm trên cho thấy bản chất của việc tiêu dùng xanh là hoạt động của con người hướng tới sự gìn giữ, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, qua đó đóng góp vào tăng trưởng xanh của nền kinh tế. Trong thực tế, người tiêu dùng có thể chưa hiểu biết về sản phẩm xanh nhưng hành động mua và sử dụng sản phẩm của họ với mục đích giảm chỉ phí trong quá trình sử dụng, hay đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng vẫn được xem là tiêu dùng xanh.
Hành vi tiêu dùng xanh
Theo Bearse và cộng sự (2009) thì hành vi tiêu dùng xanh bao gồm các hành động có mục đích bảo vệ môi trường như: sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng; các loại trang thiết bị máy móc, thực phẩm sử dụng loại bao bì đóng gói thân thiện với môi trường… Hành vi tiêu dùng xanh gắn liền với các khái niệm về sản phẩm xanh, tiêu dùng xanh. Biểu hiện cụ thể của hành vi tiêu dùng xanh là sử dụng các sản phẩm góp phần làm giảm thiểu tác động của con người đến môi trường xã hội xung quanh; phát triển kinh tế, tiêu dùng các sản phẩm không mang tính gây hại cho môi trường và an toàn cho sức khỏe con người trong suốt quá trình sản xuất ra sản phẩm, sử dụng ít năng lượng hơn, hạn chế sử dụng bao bì khó phân hủy gây hại đến môi trường, sử dụng các sản phẩm hữu cơ, tiêu dùng các loại nguyên vật liệu có thể phân hủy được, các hợp chất hữu cơ không độc hại và dễ bay hơi, dễ tái chế.
Theo Nguyễn (2014) cho rằng hành vi tiêu dùng xanh là các hành động tìm kiếm, mua và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ với mục đích làm giảm thiểu các chất thải gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm an toàn cho sức khỏe cộng đồng được thể hiện qua nhận thức, thái độ và hành động.
Theo nghiên cứu của Hoàng (2016) cho rằng có nhiều khái niệm về hành vi tiêu dùng xanh, cơ bản được phát triển dựa trên khái niệm hành vi tiêu dùng và khái niệm sản phẩm xanh. Tổng kết lại thì hành vi tiêu dùng xanh là một chuỗi các hành vi, bao gồm việc mua sản phẩm xanh và sử dụng xanh như việc tiết kiệm, tái sử dụng, tái chế sử dụng bao bị xanh và xử lý rác thải.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh
Các nghiên cứu ở nước ngoài
Theo Peattie (2010) việc phát triển hệ thống sản xuất và tiêu dùng bền vững hơn với môi trường tất cả đều phụ thuộc vào hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng trong việc họ tích cực tham gia vào các hành vi tiêu dùng những sản phẩm “xanh hơn”. Nghiên cứu đã tìm ra cách để xác định, phân tích và hiểu về “hành vi của người tiêu dùng xanh”. Nghiên cứu này cung cấp được một bức tranh toàn diện về hành vi tiêu dùng xanh và diễn giải ra cách để hiểu về hành vi tiêu dùng xanh như một quá trình. Phần lớn nghiên cứu nghiên cứu này tập trung vào các lĩnh vực có tác động lớn nhất đến môi trường như: người tiêu dùng cá nhân và các hộ gia đình lựa chọn thực phẩm và hành vi tiêu dùng của họ, phương thức vận chuyển trong công việc, trong giải trí và du lịch.
Theo nghiên cứu của Alfredsson (2004) khám phá tác động định lượng đối với việc sử dụng năng lượng và phát thải Carbon dioxide (CO) nếu các hộ gia đình áp dụng mô hình tiêu dùng “xanh”. Nghiên cứu này đã cho thấy các mô hình tiêu dùng xanh thường làm giảm thiểu mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải CO ra môi trường. Tuy nhiên, mức giảm là nhỏ và một thử nghiệm thậm chí còn cho thấy việc áp dụng mô hình tiêu thụ xanh một phần có thể làm tăng tổng lượng khí thải ra môi trường. Kết luận của nghiên cứu này đưa ra chính là việc áp dụng các mô hình tiêu dùng xanh trong khi vẫn giữ nguyên mức tiêu thụ không giải quyết được vấn đề về biến đổi khí hậu.
Nghiên cứu của Yang và cộng sự (2015) khám phá cách hấp dẫn trừu tượng (tức là mô tả các tính năng của sản phẩm xanh một cách mơ hồ hơn) và sự hấp dẫn cụ thể (tức là mô tả các tính năng của sản phẩm xanh theo cách cụ thể hơn) có thể khuyến khích người tiêu dùng tham gia vào hành vi tiêu dùng xanh. Qua ba thí nghiệm, nghiên cứu này kiểm tra dự đoán rằng sự hấp dẫn trừu tượng (cụ thể) có hiệu quả hơn trong việc tạo ra ý định mua hàng xanh hơn là sự hấp dẫn cụ thể (trừu tượng) trong các tình huống mà sự liên kết lợi ích của các sản phẩm xanh là khác (bản thân). Sự tự nhận thức của công chúng và sự nổi bật về bản sắc làm giảm tác động của loại kháng cáo và liên kết lợi ích đối với ý định mua hàng xanh. Khi các sản phẩm xanh gắn liền với lợi ích của người tiêu dùng, sự hấp dẫn trừu tượng sẽ hiệu quả hơn, trong khi cả những lời kêu gọi trừu tượng và cụ thể đều kém hiệu quả hơn khi các sản phẩm xanh gắn liền với lợi ích của bản thân. Hiệu ứng này được kiểm duyệt bởi sự tự nhận thức của công chúng và liệu mức độ tập thể của bản thân hay mức độ cá nhân của bản thân được làm nổi bật.
Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu của Phạm và cộng sự (2021) góp phần kiểm tra mức độ ảnh hưởng của cảm xúc đạo đức đến ý định ủng hộ môi trường. Ý định ủng hộ môi trường bao gồm ý định tránh làm ô nhiễm môi trường và ý định tiêu dùng xanh. Kết quả khảo sát thể hiện cảm xúc tự ý thức có tác động mạnh hơn đến ý định tránh làm ô nhiễm môi trường và ý định tiêu dùng xanh so với cảm xúc do nhân tố bên ngoài định hướng. Chỉ số tác động cũng chỉ ra rằng những cảm xúc tích cực thể hiện tác động mạnh mẽ hơn đến ý định ủng hộ môi trường so với cảm xúc tiêu cực. Kết quả cho thấy chưa đủ bằng chứng để có thể đưa ra kết luận rằng có sự điều tiết của yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi lên các mối quan hệ trong mô hình nghiên cứu. Nghiên cứu này góp phần làm phong phú thêm tài liệu tham khảo tại Việt Nam liên quan đến hành vi ủng hộ môi trường và hỗ trợ cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản trị xây dựng chiến lược khuyến khích tích cực thực hiện hành vi tiêu dùng xanh và hành vi tránh gây ô nhiễm.
Nghiên cứu của Chu (2022) cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chúng ta đang phải đối diện với một áp lực rất lớn từ ảnh hưởng của vấn đề ô nhiễm môi trường. Điều này đặt ra vấn đề cần phải thay đổi hành vi trong cả sản xuất và tiêu dùng để hướng tới phát triển bền vững. Quan điểm của tác giả về hành vi tiêu dùng xanh được hình thành và phát triển dựa trên các khái niệm hành vi tiêu dùng và sản phẩm xanh. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiều dùng được đề cập đến trong các nghiên cứu trước đây được tác giả sắp xếp thành hai nhóm là: cá nhân và tình huống. Kết luận về mức độ tác động của các nhóm nhân tố ảnh hưởng này đến hành vi tiêu dùng xanh dù có sự tương đồng nhất định với nhau nhưng không phải là có sự ảnh hưởng hoàn toàn giống nhau đến hành vi tiêu dùng xanh. Hành vi tiêu dùng xanh hiện nay ở Việt Nam đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ xã hội nhưng vẫn vấp phải rất nhiều trở ngại liên quan đến thói quen tiều dùng của người dân và nguồn lực kinh tế.
Nghiên cứu của Ngô và Dương (2020) đã được thực hiện nhằm phát triển hơn và kiểm định lại mô hình nghiên cứu có liên quan đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng tại siêu thị Co.opmart Thừa Thiên Huế. Nghiên cứu được tác giả tiến hành điều tra bằng bảng hỏi theo phương pháp nghiên cứu ngẫu nhiên hệ thống, với cỡ mẫu là 150 người tiêu dùng đã và đang sử dụng sản phẩm xanh tại siêu thị Co.opmart Thừa Thiên Huế. Kết quả của nghiên cứu này đã chỉ ra rằng:
Người tiêu dùng là nữ ở độ tuổi từ 18 đến 50 tuổi, có thu nhập từ 10 đến 15 triệu và làm cán bộ viên chức, người kinh doanh, buôn bán là những nhóm người tiêu dùng có hành vi tiêu dùng xanh phổ biến nhất.
Có 6 nhóm nhân tố có sự ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng. Tuy nhiên nhóm nhân tố nhận thức lợi ích và ảnh hưởng xã hội là hai nhóm nhân tố quan trọng và có ảnh hưởng lớn nhất đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng tại siêu thị Co.opmart Thừa Thiên Huế. Thay vào đó nhóm yếu tố về giá cả sản phẩm và nhận thức về môi trường của người tiêu dùng có mức độ ảnh hưởng thấp nhất đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng.
Nghiên cứu của Nguyễn (2019) hành vi tiêu dùng xanh hiện nay đang được xem là xu hướng tiêu dùng của thế kỷ mới khi vấn đề về ô nhiễm môi trường đang dần trở thành mối quan tâm lớn nhất của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Hành vi tiêu dùng xanh ngày càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường. Sự hợp tác giữa các nhà sản xuất, các doanh nghiệp và người tiêu dùng và các bên liên quan khác để mang lại được các giải pháp phát triển kinh tế bền vững hơn trong hệ thống sản xuất và tiêu thụ. Nghiên cứu thực hiện khảo sát 200 người tiêu dùng trên địa bàn Thành phố Sơn La thì trong đó có 34,8% người thường xuyên mua sản phẩm xanh để phục vụ cho đời sống và trong đó có 37,42% thường xuyên thực hiện hành vi tiêu dùng xanh. Từ đó tác giả nhận thấy được rằng tỷ lệ thực hiện hành vi tiêu dùng xanh khá thấp thấp, chỉ chiếm 1/3 trên tổng số những người tiêu dùng thực hiện cuộc khảo sát.
4. Thực trạng hành vi tiêu dùng xanh ở Việt Nam
Chính sách Quốc gia về tăng trưởng xanh
Vấn đề về tăng trưởng xanh đã sớm được Chính phủ đưa vào chính sách và được lồng ghép trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 đã khẳng định mọi cá nhân, tổ chức cần nâng cao ý thức trong vấn đề bảo vệ môi trường. Luôn gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi trường với việc phát triển kinh tế – xã hội, trong đó chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế xanh, bền vững, thân thiện với môi trường; thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển sản xuất và sử dụng nguồn năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch (Văn kiện Đảng, 2011).
Trong chiến lược phát triển bền vững trong giai đoạn 2011 – 2020 của Chính phủ đã nhấn mạnh: “Để thực hiện chiến lược sản xuất và tiêu dùng bền vững thì cần phải đẩy mạnh sản xuất sạch; nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời cần phải giảm thiểu chất thải và hạn chế đến mức tối thiểu mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, bảo vệ chất lượng môi trường là đang bảo vệ sức khỏe con người, đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong tương lai; xây dựng một nền văn hóa tiêu dùng văn minh, thân thiện với thiên nhiên, với môi trường; từng bước thực hiện dán nhãn sinh thái, mua sắm xanh; phát triển thị trường sản phẩm sinh thái và sáng kiến cộng đồng về sản xuất và tiêu dùng bền vững; áp dụng các chính sách điều chỉnh những hành vi tiêu dùng không hợp lý của người tiêu dùng hiện nay.
Để tạo lập một nền tảng pháp lý và tạo ra tiền đề cho quá trình xanh hoá nền kinh tế Việt Nam thì vào ngày 25 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg, Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó có hai nhiệm vụ chiến lược liên quan đến tiêu dùng xanh:
Làm xanh hoá quá trình sản xuất, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá sạch thông qua việc rà soát kỹ lưỡng và điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có; có kế hoạch sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên, khuyến khích các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất và các đối tượng khác đẩy mạnh phát triển công nghệ xanh, nông nghiệp xanh.
Chiến lược về tăng trưởng xanh là cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng trong việc xây dựng các chính sách liên quan đến nền kinh tế xanh ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. Làm xanh hoá lối sống của người dân và thúc đẩy hành vi tiêu dùng bền vững bằng việc kết hợp lối sống đẹp truyền thống với những phương tiện văn minh hiện đại. Chuyển đổi mô hình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng theo hướng xanh đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách xuyên suốt của Nhà nước và là một nội dung căn bản của đường hướng phát triển ở Việt Nam hiện nay.
5. Tình hình hành vi tiêu dùng xanh ở Việt Nam
Theo Nguyễn (2014) hành vi tiêu dùng xanh là một trong những vấn đề còn tương đối mới trong tâm lý học, nhưng ý nghĩa và tầm quan trọng của các nghiên cứu về hành vi tiêu dùng xanh đã và sẽ là những tư liệu quý giá đóng góp cho sự phát triển bền vững và sự trường tồn của trái đất, con người và các sinh vật ngụ cư trên đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù người dân Hà Nội đã nhận thức được ý nghĩa tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng xanh đối với cá nhân, gia đình và xã hội, tuy nhiên mức độ thực hiện hành vi này của họ chỉ ở mức ít tích cực. Nhà nước và chính quyền địa phương cần có các chính sách phù hợp thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm, dịch vụ xanh và thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh của người dân.
Ở những năm gần đây cùng với sự gia tăng thu nhập và trình độ nhận thức của người dân, nhu cầu sử dụng các sản phẩm xanh, tốt cho sức khỏe và môi trường ngày càng phổ biến ở Việt Nam nói chung và ở Huế nói riêng. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, trong toàn quốc cứ 5 người Việt thì có 4 người sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm cam kết sản xuất bền vững, 80% người tiêu dùng sẵn sàng chi trả nhiều hơn để mua các sản phẩm có nguyên liệu đảm bảo, thân thiện với môi trường và 79% sẵn sàng trả thêm tiền để mua những sản phẩm không có những nguyên liệu mà họ không mong muốn (Ngô & Dương, 2020).
Trong những năm gần đây, múc độ phổ biến của các loại thực phẩm hữu cơ ở Việt Nam đã tăng lên do cộng đồng ngày càng quan tâm nhiều tới vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh các loại thực phẩm hữu cơ đã được sản xuất trong minh như các loài tai. tạo và trung nhiều loại thực phẩm khác được dầu hữu cơ được nhập khẩu từ các nước khác. Hiện nay, quy mô chính xác của thị trường thực phẩm hai ở Việt Nam chưa được xác định nhưng vẫn còn rất nhỏ Tuy nhiên có các dấu hiệu cho thấy thị trường này đang có nhiều tín hiệu tăng trưởng khả quan. Mặc dù có những dấu hiệu tích cực trong tiêu dùng xanh nhưng màu độ ô nhiễm môi trưởng của Việt Nam vẫn đang bảo đồng độc but là vấn đề chất thải nhựa. Có nhiều nguyên nhân dẫn. đến tình trạng trên, trong đó phải kể đến thói quen sinh hoạt và cách thức tiêu dùng của người Việt Nam. Người dân làm dụng sử dụng túi ni–lon khó phân hủy và các sản phẩm nhựa, đặc biệt là đồ nhựa dùng một lần nên thái ra một lượng chất thải lớn ra môi trường (Chu, 2022).
6. Thuận lợi và khó khăn trong việc thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh ở Việt Nam
Thuận lợi
Chuyển đổi mô hình tiêu dùng theo hướng tiêu dùng xanh và bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm, chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước. Tiêu dùng xanh là nội dung căn bản của mục tiêu phát triển ở Việt Nam hiện nay. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã xác định mục tiêu “Xây dựng lối sống xanh kết hợp với nếp sống đẹp truyền thống để tạo nên đời sống chất lượng cao hòa hợp với thiên nhiên.“.
Thời gian qua mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiện tai và dịch bệnh nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng tương đối cao, kéo theo mức tiêu dùng của người dân được cải thiện so với những thập niên đầu thế kỷ 21. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều cá nhân và tổ chức quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Khi ý thức tiêu dùng ngày càng tăng, yêu cầu về sản phẩm xanh là một đòi hỏi thiết yếu của người tiêu dùng.
Ý thức của doanh nghiệp với sản xuất xanh sẽ ngày càng cao và do đó, việc tiếp cận đến các phẩm xanh của các cá nhân, tố thức sẽ dễ dàng hơn. Nhiều doanh nghiệp hiện đang áp dụng phương pháp Marketing xanh để có thể thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Nhà kinh donah sử dụng phương pháp truyền thông, xây dựng một hình ảnh đẹp trong mắt người tiêu dùng, thu hút vốn đầu tư trong nước và quốc tế: đồng thời đây chính là cách đó doanh nghiệp phát triển bền vững, thực hiện mục tiêu tăng trưởng lâu dài.
Hành vi tiêu dùng xanh hiện đang là xu thế của toàn cầu đó là cơ hội để sản phẩm xanh chiếm lĩnh thị trường. Trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp và các quốc gia trong thương mại quốc tế, sản phẩm xanh sẽ thu hút được nhiều khách hàng tiềm năng hơn. Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang có xu hướng triển khai chương trình sử dụng sản phẩm xanh, việc cam kết thực hiện chương trình này đã dẫn trở thành xu hướng của các quốc gia.
Khó khăn
Dù có sự chuyển biến đáng kể trong xu hướng tiêu dùng hiện nay nhưng sản xuất và tiêu dùng xanh vẫn là khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam hiện nay. Còn một số lượng lớn người dân, doanh nghiệp và tổ chức chưa có những nhận thức đẩy dù về tầm quan trọng của “tăng trưởng xanh”. Một bộ phận dân cư Việt Nam vẫn còn thói quen nặng về tiêu dùng truyền thống, lạm dụng sản phẩm rẻ tiền nhưng hiệu quả nhanh, nhiều doanh nghiệp vẫn ưa chuộng sử dụng máy móc, dây chuyền sản xuất giá rẻ với công nghệ cũ, tốn nhiều năng lượng. Điều này không có lợi cho việc tiết kiệm tài nguyên và phát triển bền vững. Kết quả khảo sát của trường Đại học Bách khoa Hồ Chí Minh đã minh họa rõ hơn về vấn đề trên: có đến 70% doanh nghiệp điều tra chưa biết đến chứng nhận xanh Việt Nam, 50 doanh nghiệp không quan tâm đến biến đổi khi hầu và 60% doanh nghiệp không sẵn lòng đầu tư cho sản phẩm xanh (Hồ, 2018).
Thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam là làm sao kết hợp được nữa mục tiêu bảo vệ môi trường với mục tiêu “lợi nhuận và thoả mãn nhu cầu của khách hàng”. Việc thực hiện sản xuất xanh sẽ khiến cho chi phi đầu tư lớn và giá thành sản phẩm cao hơn so với sản xuất truyền thống trong khi phần lớn doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn, vấn đề với công nghệ. Doanh nghiệp Việt Nam có thể được chuyển giao công nghệ xanh hiện đại nhưng đôi khi yếu tố con người, trình độ năng lực chưa theo kịp. Mâu thuẫn này khiến doanh nghiệp ngại sản xuất sản phẩm xanh, do vậy tiêu dùng xanh cũng bị tác động.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng xanh nhưng việc triển khai thực hiện trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Điều này được thể hiện ngay trong mục tiêu mà Chính phủ đặt ra đến năm 2000 là hoàn thiện và thực thi có hiệu quả chính sách pháp luật về sản xuất và tiêu dùng bên vùng. Nguyên nhân một phần là do nhận thức và tiềm lực của doanh nghiệp, người tiêu dùng còn thấp, trong khi mức hỗ trợ con khiêm tốn và khó tiếp cận, thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể.
7. Kết luận
Hành vi tiêu dùng xanh được tác giả tổng hợp và phát triển dựa trên các khái niệm hành vi tiêu dùng và khái niệm sản phẩm xanh, sản xuất xanh. Tóm lại hành vi tiêu dùng xanh là hành động mua hàng, sử dụng sản phẩm và loại bỏ rác thải từ các sản phẩm của cá nhân, tổ chức với mục đích giảm thiểu các chất thải gây ô nhiễm cho môi trường. Việc đẩy mạnh hành vi tiêu dùng xanh không những giúp bảo đảm an toàn cho sức khỏe cho cá nhân, cộng đồng và xã hội mà còn góp phần giảm thiểu tác động từ hoạt động của con người đến môi trường. Phần lớn trong các nghiên cứu mà tác giả đã đề cập ở phần trên cho thấy rằng các yếu tố ảnh hưởng như như yếu tố sự quan tâm tới môi trường, yếu tố kiến thức về sản phẩm xanh, yếu tố chuẩn mực cá nhân, sự ảnh hưởng của yếu tố xã hội, giá bán của các dòng sản phẩm xanh, mức chi tiêu và thu nhập của người tiêu dùng… đang đều có tác động tới hành vi tiêu dùng xanh hiện nay của người tiêu dùng. Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh được xem xét trong mô hình và kết luận từ các nghiên cứu đó không hoàn toàn giống nhau mà có những mức tác động khác nhau đến hành vi tiêu dùng xanh. Các nghiên cứu mới được thực hiện gần đây tập trung nhiều vào phân tích hành vi tiêu dùng xanh nói chung và hành vi mua sắm xanh. Tuy nhiên vẫn có một số nghiên cứu về khía cạnh khác trong hành vi tiêu dùng là hành vi sử dụng, loại bỏ rác thải của người tiêu dùng. Đây là những hướng nghiên cứu mang lại nhiều ý nghĩa lớn để giáo viên, sinh viên và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam tiến hành thực hiện các nghiên cứu trong tương lại. Dựa vào việc tổng hợp, đánh giá các nghiên cứu trước đây tác giả đưa ra một số đề xuất như sau:
Nhà nước
Nhà nước cần đưa ra các chính sách khuyến khích các nhà sản xuất các sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng xanh và các chinh sách giúp thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh của người dân. Chính quyền địa phương cần tăng cường các công tác tuyên truyền, vận động, khuyến khích nhằm nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng xanh đối với cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Nhà nước cần giúp nâng cao nhận thức người dân trong việc bảo vệ môi trường và có nhận thức rõ ràng hơn về hành vi tiêu dùng xanh bằng việc tăng cường tổ chức, thực hiện các chương trình giáo dục về hành vi tiêu dùng xanh tại trường học; mở các buổi thảo luận, tập huấn, diễn đàn để trao đổi về các vấn đề tiêu dùng bền vững, mua sắm xanh, phân loại rác thải sinh hoạt, rác thải sản xuất, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng, tái chế đồ đã qua sử dụng hoặc rác thải sinh hoạt…
Nhà nước sớm ban hành quy định về việc yêu cầu cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp… phân loại rác thải thành 3 nhóm sau:
- Nhóm rác thải hữu cơ
- Nhóm rác thải có khả năng tái sử dụng
- Nhóm rác thải khác
Việc phân loại rác thải giúp cho xã hội có thể tận dụng được các loại rác thải có khả năng tái chế giảm áp lực về vấn đề xử lý rác thải cho các cơ quan xử lý rác thải, tiết kiệm chi phí và nguồn lực cho quốc gia và cá nhân. Ngoài ra hành động này còn giúp bảo vệ môi trường và nâng cao nhận thức của người dân về nhiệm vụ và quyền lợi của mình trong việc bảo vệ môi trường sống. Trong những trường hợp các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức không phân loại rác và chuyển giao theo nhóm chất thải đã được quy định thì bên phía công ty Môi trường đô thị sẽ có trách nhiệm nhắc nhở nếu tái phạm nhiều lần sẽ thông báo cho chính quyền địa phương lập biên bản xử phạt theo quy định của pháp luật.
Tích cực tuyên truyền và nêu gương những cá nhân điển hình, các hộ gia đình thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường và có thành tích tốt trong các phong trào tiết kiệm năng lượng, xử lý rác thải, hạn chế sử dụng túi nilon… Chú trọng việc khai thác có hiệu quả các phương tiện truyền thông địa phương trong việc đưa sản phẩm xanh, tiêu dùng xanh trở nên gần gũi, quen thuộc và dễ hiểu hơn với người tiêu dùng như: sử dụng các kênh phát thanh, đài phát thanh, đài truyền hình của địa phương thường xuyên đề cập về vấn đề ô nhiễm môi trường, khuyến khích tiêu dùng xanh để người dân hiểu rõ hơn về khái niệm tiêu dùng xanh.Nhà nước, các cơ quan ban ngành cần thúc đẩy tạo ra phong trào xanh tại các địa phương, tổ chức phát động kêu gọi người dân hưởng ứng ngày tiêu dùng xanh, tháng tiêu dùng xanh, ngày không túi nilon, giờ trái đất… thường xuyên tổ chức tháng tiết kiệm điện, nước…t ại địa phương mình quản lý.
Doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ về giá đối với các sản phẩm, dịch vụ xanh và tăng cường tiếp thị quảng cáo xanh trong tiêu thu các sản phẩm này.
Các doanh nghiệp muốn cạnh tranh và phát triển được cần phải thay đổi tư duy và kế hoạch kinh doanh. Ngoài việc phải đảm bảo được chất lượng sản phẩm và giá cả của sản phẩm xanh thì doanh nghiệp cần chú trọng đến việc phát triển hệ thống chuỗi cung ứng của doanh nghiệp đảm bảo tiết kiệm tối đa các nguồn lực của doanh nghiệp mà vẫn phải đảm bảo được sự thuận tiện cho người tiêu dùng trong việc dễ dàng tiếp cận với các sản phẩm xanh.
Người tiêu dùng
Những người tiêu dùng đã có thói quen sử dụng thực phẩm xanh cần tích cực vận động người thân, gia đình và mọi người xung quanh cùng thực hiện hành vi tiêu dùng xanh và tuyên truyền cho mọi người về lợi ích của tiêu dùng xanh; coi đây là trách nhiệm và vinh dự lớn lao của mỗi người dân trong xã hội.
Người tiêu dùng cần chủ động tìm hiểu thông tin về các sản phẩm xanh trên thị trường. Các thông tin về sản phẩm xanh được cung cấp khá đầy đủ trên các trang thông tin điện tử, sách báo tuy vậy nhiệm vụ của người tiêu dùng là lựa chọn những nguồn thông tin chính thống, uy tín, đáng tin cậy để đảm bảo được tính chân thực. Người tiêu dùng có thể chủ động tìm hiểu thông tin về sản phẩm xanh trên các phương tiện truyền thông Facebook, Zalo, Google… trang Website của doanh nghiệp sản xuất và phân phối các dòng sản phẩm xanh, tìm hiểu qua kinh nghiệm tiêu dùng của các thành viên trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…
Người tiêu dùng nên tham gia các diễn đàn trao đổi về hành vi tiêu dùng xanh vừa giúp bản thân tiếp nhận những kiến thức tiên tiến và còn để góp phần tuyên truyền cho cả cộng đồng về tác hại của biến đổi khí hậu, những mối nguy hại cho sức khỏe của bản thân, gia đình hay ảnh hưởng tới môi trường sống từ hành vi tiêu dùng thiếu lành mạnh trong hiện tại.
Nên giữ thái độ tích cực, sẵn sàng tham gia các phong trào về vấn đề tiêu dùng xanh, bảo vệ môi trường tại nơi ở, nơi làm việc.
Bản thân người tiêu dùng xanh cũng có thể tự phát động phong trào tiêu dùng xanh với quy mô nhỏ ở trong gia đình, làng xóm, cơ quan làm việc…với các hoạt động đơn giản như “Tái chế giấy, chai lọ”, “Sử dụng túi vải khi đi chợ”, “Sử dụng ống hút giấy tại văn phòng”… tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường sẽ giúp người tiêu dùng có ý thức cao hơn về tiêu dùng xanh, hình thành thói quen tiêu dùng tích cực.
Tài liệu tham khảo
Alfredsson, E. C. (2004). “Green” consumption – no solution for climate change. Elsevier, 29(4).
Bearse, S., Capozucca, P., Favret, L., & Lynch, B. (2009). Finding the green in today‘s shoppers Sustainability trends and new shopper insights‖ Deloitte Development LLC.
Chan, R. Y. K. (2001). Determinants of Chinese consumers’ green purchase behavior. Psychology and Marketing, 18(4).
Chu, T. K. L. (2022). Tổng quan vềhành vi tiêu dùng xanh. Tạp Chí Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam, 20(4).
Hồ, H. T. (2020). Hành vi tiêu dùng bền vững: Sự khác biệt giữa các nhóm người tiêu dùng Việt Nam theo lý thuyết lưỡng nan xã hội. Tạp Chí Nghiên Cứu Kinh Tế và Kinh Doanh Châu Á, 31(6).
Hồ, T. T. (2018). Tác động của xu hướng tiêu dùng xanh đến doanh nghiệp Việt Nam. In Tạp chí Lý luận chính trị (Vol. 1).
Hoàng, H. H. (2018). Nghiên cứu phát triển doanh nghiệp sản xuất bia theo hướng tăng trưởng xanh trên địa bàn thành phố Hà Nội (Doctoral dissertation, H: Đại học Khoa học tự nhiên).
Hoàng, T. B. T. (2016). Xu hướng tiêu dùng xanh trên thế giới và hàm ý đối với Việt Nam. Tạp Chí Khoa Học ĐHQGHN: Kinh Tế và Kinh Doanh, 32(1).
Mainieri, T., Barnett, E. G., Valdero, T. R., Unipan, J. B., & Oskamp, S. (1997). Green buying: The influence of environmental concern on consumer behavior. Journal of Social Psychology, 137(2).