Tóm tắt: Tự chủ phi tập trung là một chủ đề nghiên cứu lâu đời trong khoa học thông tin và khoa học xã hội. Hiện tượng tự tổ chức trong các hệ sinh thái động vật tự nhiên, các Tổ chức Phong trào Mạng (CMO – Cyber Movement Organization) trên Internet và Trí tuệ nhân tạo phân tán (DAI – Distributed Artificial Intelligence), v.v., đều có thể được coi là những biểu hiện ban đầu của mô hình này. Trong những năm gần đây, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ blockchain đã tạo ra sự xuất hiện của Tổ chức tự trị phi tập trung – DAO – Decentralized Autonomuos Organization (đôi khi cũng có thể gọi là Tập đoàn tự trị phi tập trung – DAC – Decentralized Autonomous Corporation), là một hình thức tổ chức mới mà việc quản trị và các quy tắc hoạt động thường được mã hóa trên blockchain dưới dạng hợp đồng thông minh (smartcontract) và có thể hoạt động tự chủ mà không cần sự kiểm soát tập trung hoặc sự can thiệp của con người hay bên thứ ba. DAO được kỳ vọng sẽ đảo ngược mô hình quản trị phân cấp (cấp bậc) truyền thống và giảm đáng kể chi phí của các tổ chức về giao tiếp, quản trị và cộng tác. Tuy nhiên, DAO vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, chẳng hạn như vấn đề bảo mật và quyền riêng tư, tình trạng pháp lý không rõ ràng, v.v. Bài viết này sẽ cố gắng trình bày phần giới thiệu có hệ thống về DAO, bao gồm khái niệm và đặc điểm, khung nghiên cứu, cách triển khai điển hình, thách thức và xu hướng phát triển trong tương lai.
Từ khóa: Blockchain, cơ chế đồng thuận, tổ chức tự trị phi tập trung (DAO), hợp đồng thông minh.
1. GIỚI THIỆU
Cùng với sự phổ biến và phát triển của công nghệ blockchain (Yuan, 2018; Wang, 2018), Tổ chức tự trị phi tập trung (DAO) đang nổi lên và thu hút sự chú ý đặc biệt trong những năm gần đây. Trong một DAO lý tưởng, không có cơ quan trung ương hoặc hệ thống phân cấp quản trị. Tất cả các quy tắc quản trị và vận hành của tổ chức đều phụ thuộc vào sự hợp tác và ra quyết định của nhóm hoặc tất cả các thành viên trong tổ chức, được mã hóa trên các blockchain và lập trình thông qua các hợp đồng thông minh. Một số triển khai DAO trong thực tế đã khiến mọi người dần dần nhận ra tiềm năng của hình thức tổ chức mới này. Trên thực tế, quyền tự chủ phi tập trung không phải là một khái niệm mới. Hiện tượng tự tổ chức trong các hệ sinh thái động vật tự nhiên, các Tổ chức Phong trào Mạng (CMO) trên Web và Trí tuệ nhân tạo phân tán (DAI) đều có thể được coi là dạng phôi thai của DAO và đặt nền tảng cho sự xuất hiện của mô hình quản trị mới này.
Trong các hệ sinh thái tự nhiên, nhiều quần thể động vật có khả năng tự tổ chức (Braakman và cộng sự, 2017). Lấy đàn kiến làm ví dụ, mặc dù hành vi của một con kiến rất đơn giản và hạn chế, nhưng đàn kiến có thể hoàn thành các hành vi phức tạp, chẳng hạn như tìm kiếm thức ăn, tha mồi, làm tổ và phòng thủ. Nguyên tắc cốt lõi là các cá thể trong đàn kiến có thể phối hợp theo sự phân công lao động và điều chỉnh hành động dựa trên những thay đổi của môi trường (Robinson và cộng sự, 2009; Wei và cộng sự, 2018). Ngoài kiến, cá, ong và các động vật theo đàn cũng có những hành vi tự tổ chức tương tự (Bonabeau và cộng sự, 2000). Các quần thể động vật này đều có đặc điểm là không có sự kiểm soát tập trung và cấu trúc phân cấp, đồng thời hành vi của nhóm sẽ không bị ảnh hưởng bởi những bất thường ở các cá thể. Hiện tượng này còn được biết đến rộng rãi với tên gọi Swarm Intelligence (Valle và cộng sự, 2008; Luo và cộng sự, 2018)
Ở cấp độ Internet, sự phổ biến của Internet, đặc biệt là Internet di động, cung cấp một phương tiện tổng hợp nhanh chóng và quy mô lớn các hành vi của cư dân mạng trực tuyến, dẫn đến sự xuất hiện của CMO (Aragón và cộng sự, 2016). CMO đề cập đến các tổ chức hoặc nhóm phong trào xã hội được tạo ra hoặc tăng cường thông qua không gian mạng, tức là các cư dân mạng nhanh chóng tập hợp lại với nhau trong một khoảng thời gian ngắn để tham gia, thảo luận và cùng thực hiện một số hành vi xã hội nhất định cho một chủ đề hoặc sự kiện cụ thể. Human Flesh Search (HFS) (Wang và cộng sự, 2010), Internet Water Army (Zeng và cộng sự, 2010), và Crowdsourcing (Howe và cộng sự 2016; Zaamout và Barker, 2018) là những CMO trực tuyến điển hình, chúng được tổ chức thông qua nhiều nền tảng truyền thông xã hội khác nhau như hệ thống bảng thông báo (BBS – bulletin board system), diễn đàn, blog, weibo , v.v. để đăng tải các thông tin về một chủ đề nào đó, sau đó nhanh chóng lây nhiễm và lan truyền rộng rãi, cuối cùng là tác động đến hành vi hoặc tạo ra một phong trào của cư dân mạng. CMO thường được đặc trưng bởi các tương tác năng động, thời gian thực, tự tổ chức và tương tác ảo-thực.
Từ góc độ trí tuệ nhân tạo (AI), DAI (Rauff, 1999) đại diện cho xu hướng phát triển trong tương lai. DAI chủ yếu nghiên cứu cách các hệ thống thông minh được phân tán về mặt logic hoặc vật lý để giải quyết các vấn đề phức tạp một cách song song và phối hợp. Các hệ thống DAI thường chứa nhiều nút tự trị phân tán – distributed autonomous nodes (tức là các tác nhân), không chỉ có khả năng lựa chọn nhiệm vụ, ưu tiên và hành vi hướng đến mục tiêu (còn được gọi là niềm tin-mong muốn-ý định – BDI – belief-desire-intention) (Georgeff và cộng sự, 1998), mà còn có tính xã hội thông qua giao tiếp, hợp tác và đàm phán. Trong hệ thống DAI, không có sự kiểm soát tập trung, do đó, nó cởi mở và linh hoạt hơn các hệ thống tập trung. Do tính dự phòng cao nên nó có khả năng chịu lỗi của DAI cũng cao tương ứng.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành về quản trị phi tập trung. Ví dụ, người đoạt giải Nobel kinh tế năm 2009 Elinor Ostrom đề xuất lý thuyết Quản trị đa trung tâm và Tự quản – Polycentric Governance and Self-Governance theory (Ostrom, và cộng sự, 1993; 2010). Cô tin rằng cơ cấu tự quản đa trung tâm được hình thành theo trật tự tự phát của tổ chức cộng đồng có đặc điểm là quyền tài phán phi tập trung và chồng chéo, có thể hạn chế chủ nghĩa cơ hội và hành vi tự do ở mức độ lớn nhất và hiện thực hóa sự phát triển bền vững của lợi ích chung. Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng những người chia sẻ tài nguyên chung có thể tiến hành tự quản lý thông qua huy động vốn từ cộng đồng và các hợp đồng độc lập, do đó tránh được tình thế tiến thoái lưỡng nan trong quản lý các vấn đề chung như Bi kịch của cộng đồng (Tragedy of the Commons). Nhà xã hội học Walter W. Powell cũng chỉ ra rằng tự tổ chức là cơ chế quản trị thứ ba độc lập với hệ thống phân cấp và thị trường, vì nó dựa trên sự tin tưởng và đàm phán (Powell, 1990). Thông qua khả năng tự quản trị và các biện pháp khuyến khích hiệu quả (Li và cộng sự, 2018), chi phí thu thập thông tin, chi phí quản trị, chi phí điều phối và chi phí giám sát trong tổ chức sẽ giảm đáng kể và cuối cùng đạt được sự tồn tại lâu dài và quản trị hiệu quả của cộng đồng. Ngoài ra, việc triển khai DAO thực sự được hưởng lợi từ sự xuất hiện của công nghệ blockchain (Larimer, 2019). Blockchain tích hợp lưu trữ dữ liệu phân tán, dấu thời gian, thuật toán đồng thuận, mã hóa bất đối xứng, có các đặc tính phi tập trung, bất biến và có thể kiểm toán nên có thể thực hiện việc truyền tải thông tin và chuyển giao giá trị một cách an toàn và hiệu quả. Năm 2015, Ethereum đã trở thành nền tảng blockchain công khai đầu tiên hỗ trợ hợp đồng thông minh với sự trợ giúp của máy ảo hoàn chỉnh Turing có tên là Máy ảo Ethereum (EVM). Với hợp đồng thông minh, người dùng có thể thiết kế nhiều ứng dụng phi tập trung (DApps) khác nhau trên blockchain. Lấy cảm hứng từ điều này, mọi người dự tính rằng các quy tắc quản trị và vận hành của tổ chức cũng có thể được mã hóa trên blockchain dưới dạng hợp đồng thông minh, để tổ chức sẽ hoạt động tự chủ theo logic kinh doanh được xác định trước mà không cần sự can thiệp của bên thứ ba. Vào năm 2016, DAO đầu tiên trên thế giới – DAO đã được ra mắt và huy động được Ether (ETH – đồng tiềm mã hóa của Blockchain Ethereum) trị giá 150 triệu đô la trong một khoảng thời gian ngắn, khiến nó trở thành dự án huy động vốn cộng đồng lớn nhất thế giới tại thời điểm đó. Kể từ đó, một loạt DAO đã được đề xuất, ví dụ: DigixDAO, Aragon, Steemit, Project Catalyst, v.v.
Hiện tại, DAO vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Đầu tiên là vấn đề bảo mật. Vụ án khét tiếng nhất là Cuộc tấn công DAO của Ethereum vào tháng 6 năm 2016, dẫn đến vụ trộm hơn 50 triệu đô la ETH. Thứ hai là vấn đề pháp lý, nguyên nhân là do DAO có mâu thuẫn với Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán hiện hành. Những thách thức khác bao gồm các vấn đề về hiệu suất, quyền riêng tư và tính linh hoạt.
Trước xu hướng phát triển theo hướng đổi mới công nghệ và ngành trong lĩnh vực DAO và việc thiếu khung phân tích và kỹ thuật thống nhất, trong bài viết này sẽ đưa ra một cái nhìn tổng quan toàn diện về DAO.
2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA DAO
Hiện tại, DAO chưa được xác định thống nhất. Một số quan điểm cho rằng DAO là một tổ chức được hỗ trợ bởi blockchain, có thể tự vận hành mà không cần bất kỳ cơ quan trung ương hoặc hệ thống phân cấp quản lý nào. Trong DAO, tất cả các quy tắc quản trị và vận hành được ghi lại trên blockchain dưới dạng hợp đồng thông minh, các giao thức đồng thuận phân tán và được khuyến khích thông qua mã thông báo (token) được sử dụng để hiện thực hóa khả năng tự vận hành, tự quản trị và sự tự tiến hóa. Một số tóm tắt các đặc điểm của DAO như sau:
Phân phối và phi tập trung
Một tổ chức truyền thống thường tuân theo hệ thống phân cấp từ trên xuống với quyền lực tập trung. Tuy nhiên, không có cơ quan trung ương và kiến trúc phân cấp trong DAO, sứ mệnh của DAO đạt được thông qua tương tác từ dưới lên, tự điều phối và hợp tác giữa các nút mạng phân tán. Do đó, mối quan hệ trong tổ chức không còn được xác định bởi liên kết hành chính mà tuân theo các nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, có đi có lại và cùng có lợi, đồng thời được thúc đẩy bởi nguồn lực tài nguyên và lợi thế bổ sung của cá nhân, như trong Hình 1.
Tự chủ và tự động
Trong một DAO lý tưởng, mã là luật (code is law), tổ chức không còn theo hình chóp mà được phân tán, quyền lực không còn tập trung mà được phân cấp và việc quản lý không còn dựa trên hệ thống quan liêu mà dựa trên quyền tự chủ của cộng đồng. Ngoài ra, vì DAO thường hoạt động theo các quy tắc quản trị và mô hình hợp tác được xác định bởi tất cả các bên liên quan nên sự đồng thuận và tin cậy trong DAO sẽ dễ dàng đạt được hơn và do đó chi phí tin cậy, chi phí liên lạc và chi phí giao dịch sẽ được giảm thiểu.
Có tổ chức và có trật tự
Dựa vào hợp đồng thông minh, các quy tắc hoạt động của DAO, trách nhiệm và quyền hạn của người tham gia cũng như các điều khoản về thưởng và phạt đều công khai và minh bạch. Thông qua một loạt các quy tắc quản trị hiệu quả, quyền và lợi ích của những người tham gia có liên quan được phân biệt và đánh giá một cách chính xác, nghĩa là các cá nhân trả tiền, đóng góp và nhận trách nhiệm sẽ được phân bổ quyền hạn và lợi ích tương ứng để thúc đẩy sự phân công lao động và thống nhất xã hội. Quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích để hoạt động của tổ chức được phối hợp và có trật tự hơn.
Hình 1: Từ tập trung hóa ĐẾN sự phân cấp.
III. MÔ HÌNH THAM KHẢO CHO DAO
Trong bài viết này đề xuất một mô hình tham khảo cho DAO. Như được hiển thị trong Hình 2, mô hình đề xuất sử dụng kiến trúc năm lớp, cụ thể là lớp công nghệ cơ bản, lớp vận hành quản trị, lớp cơ chế khuyến khích, lớp hình thức tổ chức và lớp biểu hiện từ dưới lên. Các chi tiết như sau.
Lớp công nghệ cơ bản
Lớp này đóng gói tất cả các cơ sở hạ tầng hỗ trợ DAO và các ứng dụng phái sinh của nó, bao gồm Giao thức Internet, Blockchain, Dữ liệu lớn và Trí tuệ nhân tạo, v.v.
1) Giao thức Internet: DAO thường được xây dựng trên mạng ngang hàng (P2P) để khuyến khích sự tham gia của các nút được phân phối trên toàn thế giới.
2) Công nghệ Blockchain: Tính năng đáng chú ý nhất của DAO là tính phân quyền và quyền tự chủ mở. Công nghệ blockchain là chìa khóa để DAO hiện thực hóa các chức năng của mình. Cơ chế đồng thuận của blockchain cho phép các nút trong hệ thống phi tập trung có quyền ra quyết định phân tán cao để đạt được sự đồng thuận một cách hiệu quả. Hợp đồng thông minh viết các quy tắc hoạt động của DAO vào blockchain dưới dạng mã máy tính, do đó nhận ra mã là loại quản lý theo luật. Ngoài ra, mã hóa bất đối xứng và dấu thời gian đảm bảo các yêu cầu bảo mật và xác thực quyền sở hữu của DAO.
3) Trí tuệ nhân tạo: Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ AI được thể hiện bằng học sâu, học tăng cường và mạng đối thủ tổng hợp (GAN – Generative Adversarial Network), mỗi nút riêng lẻ trong DAO sẽ trở thành một tác nhân tự trị (còn được gọi là như tác nhân/robot phần mềm). Các thành phần này có tính tự chủ vì chúng có khả năng của BDI. Trong tương lai, chúng được kỳ vọng sẽ thay thế con người trong nhận thức, lý luận, ra quyết định và các chức năng khác. Ngoài ra, hợp đồng thông minh không còn bị giới hạn ở việc thực thi tự động theo các câu lệnh loại If-Then-được xác định trước mà còn có khả năng khấu trừ, tính toán kiểu What-If và đưa ra quyết định thông minh trong các tình huống không xác định. Những điều này sẽ cung cấp cho DAO nhiều thông tin hơn.
4) Dữ liệu lớn: Công nghệ dữ liệu lớn có thể thu thập dữ liệu trạng thái, dữ liệu giao dịch nội bộ và dữ liệu vận hành hệ thống của các nút DAO trong thời gian thực và có thể giúp hiểu được xu hướng tiến hóa và phát triển của DAO. Điều đáng chú ý là bản thân blockchain cũng là sự đảm bảo cho tính bảo mật và giải mẫn cảm dữ liệu (desensitization).
5) Internet of Things: Blockchain có thể được kết hợp với Internet of Things (IoT) để tạo thành Blockchain of Things (BoT), giúp chuyển đổi kỹ thuật số và tích hợp các thiết bị thông minh và tài sản vật chất vào DAO. Là nền tảng dịch vụ IoT đáng tin cậy, DAO có thể giám sát toàn bộ vòng đời của thiết bị thông minh một cách an toàn và đáng tin cậy, thực hiện giao dịch tự động giữa các thiết bị và sử dụng hợp đồng thông minh để đạt được khả năng tương tác giữa các thiết bị thông minh.
Lớp vận hành quản trị
Lớp này mã hóa sự đồng thuận bằng các hợp đồng thông minh và có thể hiện thực hóa khả năng tự quản trị của tổ chức và nâng cấp lặp đi lặp lại liên tục thông qua cộng tác trên chuỗi và ngoài chuỗi. Cụ thể, lớp này bao gồm cơ chế đồng thuận, hợp đồng thông minh, số hóa, kết hợp thông minh và cộng tác trên/ngoài chuỗi.
1) Hợp đồng đồng thuận (Consensus Contractualization): Các tổ chức thường hoạt động trên cơ sở hợp đồng dựa trên sự đồng thuận. Mục đích của việc xác lập hợp đồng là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức và thậm chí là sự vận hành lành mạnh của xã hội thông qua các biện pháp chế tài của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế thực hiện hợp đồng còn tồn tại nhiều vấn đề như khó khăn trong việc đánh giá hiệu lực của hợp đồng, khó khăn trong việc thực hiện việc hủy bỏ sự thay đổi, khó khăn trong việc điều tra trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng, v.v.. DAO được xây dựng trên các hợp đồng thông minh được triển khai và bảo mật bởi blockchain. Hợp đồng thông minh thường bao gồm các thỏa thuận được thực hiện giữa các nhà thầu dưới dạng logic kinh doanh và có thể thực thi và thực thi một cách tự động. Về cơ bản, hợp đồng thông minh lập trình các mối quan hệ phức tạp của các nút mạng, sử dụng các giao thức và giao diện để hoàn thành tất cả các thủ tục từ đàm phán đến thực hiện. DAO cho phép các nút đại diện cho các lợi ích khác nhau (ví dụ: người tham gia thông thường, nhà phát triển công nghệ, nhà đầu tư, v.v.) đàm phán và làm rõ các quyền và nghĩa vụ tương ứng, xác định và xác thực các điều khoản hợp đồng, sau đó lập trình hợp đồng trên blockchain để phân phối, xác minh và tự động thực hiện .
2) Số hóa là điểm khởi đầu (Digitalization as the Starting Point): Hợp đồng thông minh cung cấp sự đảm bảo tin cậy cho việc quản trị DAO, trong khi điểm khởi đầu của quản trị DAO là số hóa. Bản chất của số hóa là thu thập và phân tích dữ liệu, sau đó dữ liệu được áp dụng để đổi mới mô hình kinh doanh, tái thiết hệ sinh thái kinh doanh, cải thiện trải nghiệm người dùng, v.v. Bản thân số hóa không phải là mục đích cuối cùng mà là mô hình hóa và phân tích sâu sắc về tổ chức, tạo cơ sở để DAO đột phá ranh giới của nó và cung cấp một công cụ để quản lý thông minh và ra quyết định.
3) Kết hợp thông minh (Intelligent Matching): DAO chạy trên nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ-xử lý phi tập trung thường sử dụng công nghệ AI để tự động kết hợp, kết nối và kết nối mọi người/tổ chức/kiến thức/sự kiện/sản phẩm/dịch vụ, v.v., đây là một cách quan trọng để DAO giảm chi phí truyền thông và nâng cao hiệu quả. Ví dụ: DAO có thể thực hiện việc tự động khớp các vai trò/nhiệm vụ, thông qua số hóa thông tin và dữ liệu hành vi của các cá nhân/tổ chức (chẳng hạn như dữ liệu nhấp chuột, tìm kiếm và duyệt của người dùng) và khớp các vị trí và vai trò của các cá nhân trong DAO theo sở thích của họ. những đóng góp và khả năng của mình, sau đó tự động hoàn thành việc xác định, đề xuất và đối sánh nhiệm vụ. Bằng cách này, nguồn nhân lực và tri thức có thể được huy động nhanh chóng. Ngoài ra, DAO có thể thực hiện đánh giá đa chiều về quy trình và kết quả công việc của từng cá nhân. Kết quả đánh giá thể hiện trình độ của các cá nhân trong hệ thống danh dự DAO và các cấp độ khác nhau sẽ được hưởng các quyền và lợi ích khác nhau.
4) Hợp tác trên chuỗi và ngoài chuỗi (On-Chain and Off-Chain Collaboration): Khác với chế độ quản lý tập trung truyền thống đặt lợi ích của cổ đông kiểm soát lên hàng đầu, DAO áp dụng chế độ quản trị hợp tác trên chuỗi và ngoài chuỗi. Quản trị trên chuỗi chủ yếu là xác định, cập nhật và duy trì sự đồng thuận thông qua hợp đồng thông minh. Trọng tâm là tạo ra một hệ thống đáng tin cậy trong môi trường không tin tưởng lẫn nhau và đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan. Cơ chế đồng thuận nghiên cứu cách các nút trong hệ thống phân tán đạt được tính nhất quán của dữ liệu và đồng ý về đề xuất trong môi trường Internet phức tạp, mở và không đáng tin cậy. Các thuật toán đồng thuận phổ biến bao gồm Bằng chứng công việc (PoW), Bằng chứng cổ phần (PoS), Dung sai lỗi Byzantine thực tế (PBFT), Bằng chứng cổ phần được ủy quyền (DPoS) và đồng thuận kết hợp, v.v. Quản trị ngoài chuỗi là một loạt các biện pháp quản trị được áp dụng để đảm bảo thiết lập, công nhận, phổ biến và đổi mới sự đồng thuận. Do những hạn chế của công nghệ hiện tại, DAO được thể hiện nhiều hơn như một phần nhỏ của quản trị trên chuỗi + phần lớn quản trị ngoài chuỗi. Tuy nhiên, khi công nghệ trưởng thành hơn, nó sẽ tập trung nhiều hơn vào quản trị trên chuỗi. Ngoài ra, các fork (phân nhánh) bao gồm soft fork và hard fork cũng là phương tiện hữu hiệu để giải quyết xung đột trong quản trị DAO. So với cách các công ty đại chúng giải quyết tranh chấp, tác động thị trường do fork gây ra tương đối thấp, điều này cũng phản ánh những lợi thế của việc quản trị DAO dựa trên cơ chế đồng thuận.
Hình 2. Mô hình tham khảo cho DAO.
Lớp cơ chế khuyến khích
Khuyến khích bằng mã thông báo (token) là động lực chính cho vận hành DAO. Token là một loại tài sản kỹ thuật số có thể thương lượng và là bằng chứng về quyền và lợi ích. Cổ phiếu, trái phiếu và quyền chọn trong thế giới thực có thể được số hóa dưới dạng mã thông báo. Nói chung, người ta tin rằng mã thông báo ít nhất tích hợp các thuộc tính của vốn chủ sở hữu (giá trị gia tăng, thu nhập dài hạn), tài sản (đại diện cho quyền sử dụng, hàng hóa hoặc dịch vụ) và tiền tệ (lưu hành trong một phạm vi nhất định).
Các nhà tài trợ, nhà phát triển và các bên liên quan khác của DAO chia sẻ quyền sở hữu của hệ thống, trong khi động lực kinh tế chính cho những người tham gia khác là mã thông báo. Mô hình kinh tế mới được tạo bởi mã thông báo được gọi là Nền kinh tế mã thông báo (tokenomics), trong đó đề cập cụ thể đến việc sử dụng các thuộc tính tài chính của tài sản kỹ thuật số tiền điện tử để ánh xạ hàng hóa và dịch vụ thành mã thông báo và sau đó đạt được các giao dịch chi phí thấp hoặc thậm chí không tốn phí. Hiện tại, các loại mã thông báo phổ biến bao gồm mã thông báo thanh toán (payment token), mã thông báo chức năng (functional token) và mã thông báo tài sản (asset token) .
Mỗi DAO có thể phát hành mã thông báo riêng và đặt số lượng lưu thông, thời gian khóa, chế độ phân phối và các yếu tố khác của mô hình mã thông báo tùy theo thuộc tính của dự án. Chìa khóa của thiết kế mô hình mã thông báo là thiết kế cơ chế. Mục tiêu là thúc đẩy khả năng khuyến khích của những người tham gia và đạt được trạng thái đôi bên cùng có lợi. Một mặt, một mô hình mã thông báo tốt sẽ tích hợp vốn tiền tệ, vốn nhân lực và các nguồn vốn khác với nhau, thay đổi mối quan hệ giữa con người và tổ chức, giảm chi phí hoạt động, đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn trong giai đoạn đầu của dự án. Mặt khác, do mã thông báo tự neo giữ dự án nên các dự án chất lượng cao sẽ làm cho giá trị thị trường của mã thông báo liên tục tăng lên, điều này có thể đóng vai trò khuyến khích kinh tế tốt hơn cho người tham gia.
Lớp biểu mẫu tổ chức
Hình thức tổ chức của DAO là cấu trúc mạng lập thể đa trung tâm và số lượng nhỏ các nhóm cơ bản + quyền tự chủ cộng đồng quy mô lớn. So với hình thức tổ chức truyền thống, DAO thay đổi từ có trật tự đến hỗn hợp, từ theo đuổi sự ổn định và kiên cố hóa đến theo đuổi sự cân bằng năng động, từ tương đối đơn giản đến đa dạng . Đặc điểm của nó có thể được tóm tắt như sau.
1) Bằng phẳng: Trật tự cấp bậc trong tổ chức bị phá vỡ. Sự linh hoạt của các cá nhân có thể được phát huy đầy đủ, đồng thời có thể đạt được sự quản trị minh bạch và hiệu quả.
2) Mở: Các ranh giới bên trong và bên ngoài của các tổ chức cũng bị phá bỏ. DAO có thể điều chỉnh bất cứ lúc nào dựa trên các dự án, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, sau đó giải tán hoặc diệt vong khi nhiệm vụ của nó hoàn thành.
3) Song song: Trong DAO tương lai, mọi cá nhân hoặc tổ chức trong thực tế sẽ có một đối tác ảo tương ứng với nó. Thông qua tương tác ảo-thực, phản hồi vòng kín và cộng tác trong chuỗi và ngoài chuỗi, việc tối ưu hóa việc ra quyết định và điều chỉnh quản trị tổ chức có thể được thực hiện song song.
4) Tích hợp con người-máy: Với sự tiến bộ của công nghệ, DAO sẽ tiếp tục phát triển thành tích hợp con người-máy. Các tác nhân thông minh trong DAO sẽ được con người ủy quyền để thực hiện các hoạt động kinh doanh khác nhau. Những tác nhân này cũng sẽ thực hiện sự cạnh tranh, phối hợp và hợp tác giống như con người.
Lớp biểu hiện
DAO có nhiều biểu hiện khác nhau. Tùy thuộc vào các dịch vụ được cung cấp, nó có thể là các loại tiền kỹ thuật số như Bitcoin hoặc các nền tảng/hệ thống phát triển công cộng như Ethereum hoặc thậm chí các thiết bị IoT được kết nối với nhau như ô tô tự lái. Ngoài ra, tùy thuộc vào mức độ phân cấp, DAO có thể được phân cấp hoàn toàn như blockchain công khai hoặc phân cấp một phần như consortium blockchain (ví dụ: Hyperledger và EOS). Hiện tại, DAO thường dựa trên mô hình Tổ chức phi lợi nhuận + Các công ty được ủy quyền + Các biểu hiện khác nhau. Tổ chức phi lợi nhuận, đồng minh chung tiến hành gây quỹ hoặc Cung cấp mã thông báo ban đầu (ICO), phân phối, quản lý và giám sát với tư cách là cơ quan chính của việc phát hành mã thông báo. Các công ty được ủy quyền được giao nhiệm vụ phát triển công nghệ, tiếp thị và dịch vụ pháp lý. Sau đó, DAO thường được trình bày dưới dạng một cộng đồng nguồn mở để thúc đẩy sự hợp tác trên chuỗi và ngoài chuỗi.
IV. CÁC TRƯỜNG HỢP ỨNG DỤNG DAO
Trong phần này bài viết sẽ lấy Project Catalyst làm ví dụ để phân tích cách ứng dụng của DAO trong thực tế
Project Catalyst là gì?
Project Catalyst là công cụ đổi mới phi tập trung lớn nhất thế giới để giải quyết các thách thức trong thế giới thực, ngoài tra Project Catalyst còn là một công cụ đổi mới mang tính cách mạng của nền tảng Blockchain Cardano và cũng là một trong những quỹ tài trợ phi tập trung lớn nhất hiện nay. Project Catalyst thúc đẩy sự đổi mới, hợp tác lên tầm cao mới và mở rộng hệ sinh thái Cardano bằng cách kết nối những người có ý tưởng đột phá với nguồn tài trợ cộng đồng, kết quả được bỏ phiếu bởi cộng đồng Cardano và do kho bạc Cardano cung cấp.
Project Catalyst có mục đích là xây dựng các hệ thống cho phép Cardano blockchain có thể tự duy trì bằng cách tạo ra một hệ sinh thái tự tăng trưởng và phát triển. Trọng tâm của điều này là khái niệm tổ chức quản trị phi tập trung (DAO), theo đó cộng đồng Cardano chọn những ý tưởng và ưu tiên chung để cấp vốn, hình thành một chu kỳ tăng trưởng bền vững và có đạo đức.
Hình 3: Các mục tiêu của Project Catalyst
Ba đến bốn tháng một lần, Project Catalyst sẽ tổ chức một vòng tài trợ, cộng đồng đưa ra những thách thức đối với một loạt dự án liên quan đến Cardano. Những thách thức này sau đó sẽ được giải quyết chính bởi cộng đồng thông qua những ý tưởng với giải pháp rõ ràng. Những ý tưởng dự án có thể liên quan đến kỹ thuật, kinh doanh, sáng tạo hay phát triển cộng đồng – muốn được tài trợ vốn hoạt động. Cộng đồng nắm giữ đồng tiền mã hóa của Cardano (ADA) sẽ bình chọn, bỏ phiếu cho các đề xuất và lựa chọn các dự án để nhận tài trợ.
Project Catalyst cho phép mọi người hiện thực hóa và thực hiện những ý tưởng tuyệt vời không chỉ là nguồn tài trợ miễn phí (không cần trả lại bằng % cổ phần như các hình thức cấp vốn truyền thống), mà còn các yếu tố khác, bao gồm giáo dục, cố vấn, hợp tác và phát triển lộ trình sản phẩm cũng cần thiết để nuôi dưỡng các dự án và giúp họ chính thức hóa kế hoạch kinh doanh và chiến lược tiếp cận thị trường hiệu quả.
Nguồn vốn của Project Catalyst đến từ các khoản phí thu được từ các giao dịch đồng tiền mã hóa ADA trên Blockchain Cardano. Ngồn vốn này sẽ góp phần vào việc phát triển các dự án hay những ứng dụng của Blockchain Cardano có tác động tích cực đến xã hội và cuộc sống, ngoài ra Project Catalyst cũng đồng thời có nhiều cơ chế khen thưởng cho những người tạo ra, xây dựng và duy trì hệ sinh thái, từ đó thúc đẩy động lực và phản hồi trở lại cho hệ sinh thái, tạo ra tính bền vững tổng thể của blockchain này.
Dân chủ phi tập trung và minh bạch
Project Catalyst tiến hành dân chủ hóa việc ra quyết định bằng cách cho phép cộng đồng Cardano bỏ phiếu về cả những thách thức mà họ mong muốn được giải quyết và các đề xuất giải quyết chúng.
Cộng đồng Cardano vẫn là trung tâm của các quyết định, họ có quyền điều hướng và quyết định hướng đi tương lai của cả blockchain nền tảng và việc phát triển hệ sinh thái trên Blockchain đó. Bất kỳ ai từ đến từ bất kỳ đâu đều có quyền trình bày ý tưởng của mình đồng thời có khả năng được cung cấp phương tiện để hiện thực hóa chúng.
Quản trị là một vấn đề quan trọng, không chỉ trong bối cảnh blockchain mà còn trên toàn thế giới. DAO là một cơ hội tuyệt vời để chúng ta có thể tìm hiểu, so sánh những gì đã hoạt động tốt và chưa tốt của mô hình quản trị cấp bậc và đưa ra một quy trình ra quyết định phi tập trung giúp tránh được nhiều cạm bẫy của các hệ thống chính quyền tập trung truyền thống.
Một khía cạnh quan trọng giúp thúc đẩy sự tin cậy và tính chính trực của Project Catalyst là tính minh bạch. Tất cả các kết quả và dữ liệu liên quan đến từng vòng cấp vốn đều được công bố một cách minh bạch, cùng với bảng phân tích chi tiết về số phiếu bầu và thông tin tài chính. Có các phiên họp hàng tuần dành cho toàn bộ cộng đồng, nơi các kế hoạch được truyền đạt để cho phép những người nắm giữ ADA nói lên ý kiến của mình và đưa ra giải pháp cho mọi trở ngại được nhận thấy. Mọi tiếng nói đều được lắng nghe và tôn trọng giúp khuyến khích sự cởi mở giữa cộng đồng để tăng tốc hơn nữa sự hợp tác về ý tưởng của họ.
Hình 4: Một số thống kê về Project Catalyst
Tại sao hợp tác để đổi mới?
Trong mười quỹ gần đây nhất, nhóm Catalyst đã nỗ lực rất nhiều trong việc tạo ra một hệ thống quản trị cho phép mọi người có tiếng nói của mình. Cụ thể:
- Nghiên cứu và phát triển phân tán: Bằng cách trao quyền cho cộng đồng của mình, Project Catalyst có thể xây dựng mọi thứ tốt hơn, nhanh hơn và rẻ hơn so với các tổ chức quản trị theo hướng từ trên xuống.
- Xây dựng đội ngũ phi tập trung: Sự đổi mới đột phá đến từ những đội ngũ tuyệt vời. Nhiều dự án có tác động mạnh nhất của Cardano đến từ các nhóm đã gặp nhau khi trở thành thành viên của Project Catalyst.
- Tinh chỉnh và thực hiện nhóm: Project Catalyst nhận thấy sự cải thiện đáng kể về chất lượng của các đề xuất xin cấp vốn sau khi cộng đồng cân nhắc những lời góp ý mang tính xây dựng của cộng đồng.
Project Catalyst hoạt động như thế nào?
- Đổi mới: Mỗi người tham gia nộp dự án xin cấp vốn bởi Project Catalyst với những thách thức do cộng đồng tạo ra bằng ý tưởng của họ. Việc động não dẫn đến việc hình thành khái niệm, phản hồi của cộng đồng và sau đó là các đề xuất cuối cùng.
- Quản trị: Những người tham gia đăng ký bỏ phiếu cho các đề xuất mà họ mong muốn được tài trợ từ quỹ Project Catalyst. Việc kiểm phiếu diễn ra khi thời gian bỏ phiếu kết thúc trước khi kết quả có thể kiểm chứng được chia sẻ.
- Thực hiện: Các dự án được chọn sẽ nhận được tài trợ sau khi hoàn thành các mốc quan trọng. Họ được hướng dẫn và cố vấn để đưa ra các đề xuất của mình và báo cáo thường xuyên cho cộng đồng để đảm bảo mọi thứ diễn ra theo đúng kế hoạch.
Làm thế nào có thể tham gia?
- Đề xuất những ý tưởng mới để giành được nguồn tài trợ
- Đưa ra ý kiến và giúp hướng dẫn cử tri thông qua các đề xuất được đưa ra.
- Nhóm Thử thách: Tối đa hóa tác động bằng cách xác định vấn đề và xác định thành công
- Cử tri: Quyết định về tương lai của Cardano bằng cách quyết định đề xuất nào nhận được tài trợ
Hình 5: Một vòng cấp vốn tiêu biểu của Project Catalyst
V. THÁCH THỨC VÀ XU HƯỚNG TƯƠNG LAI
DAO hiện đang ở giai đoạn sơ khai và phải đối mặt với nhiều thách thức. Trong phần này sẽ phác thảo ngắn gọn những thách thức và xu hướng phát triển trong tương lai của DAO.
Thử thách
1) Vấn đề bảo mật: Do tính chất chống giả mạo của blockchain nên rất khó để thay đổi DAO hoặc các hợp đồng thông minh làm nền tảng cho nó sau khi nó được triển khai trên blockchain . Do đó, những kẻ tấn công có thể lợi dụng lỗ hổng trong hợp đồng thông minh để kiếm lợi nhuận. Như đã đề cập trước đó, vào tháng 6 năm 2016, một hacker (hoặc nhóm hacker) ẩn danh đã rút tiền từ DAO vào một childDAO, dẫn đến 3,5 triệu ETH (tương đương khoảng 50 triệu USD) bị đánh cắp. Các lỗ hổng bảo mật phổ biến cũng bao gồm cuộc gọi đệ quy, sự phụ thuộc vào thứ tự giao dịch (TOD – transaction-ordering dependence ), sự phụ thuộc vào dấu thời gian và các ngoại lệ được xử lý sai, v.v. Những vấn đề bảo mật này đã hạn chế rất nhiều sự phát triển của DAO.
2) Tình trạng pháp lý không rõ ràng: Do DAO có đặc điểm là không phân cấp, xuyên biên giới và ẩn danh nên một khi phát sinh vấn đề pháp lý trong hoạt động thực tế sẽ dẫn đến khó khăn về trách nhiệm giải trình và thiếu biện pháp khắc phục hậu quả. Hiện tại, DAO chưa được xác định rõ ràng ở cấp độ pháp lý. Một số người sử dụng thuật ngữ hợp tác chung cho DAO và các nhà đầu tư của nó. Điều này đặt mọi bên liên quan hoặc nhà đầu tư hoặc ai đó sở hữu token cho DAO cụ thể phải chịu trách nhiệm về bất kỳ khoản nợ hoặc hành động pháp lý nào mà DAO phải đối mặt, trong khi những người khác cho rằng DAO giống hợp đồng đầu tư hoặc chứng khoán hơn. Trong tương lai, các luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp đồng, Luật Chứng khoán, Luật Dân sự và Thương mại cần đưa ra định nghĩa về DAO để xác định rõ phạm vi điều chỉnh của pháp luật; do đó, DAO có thể đảm nhận các trách nhiệm tương ứng và thực hiện các nghĩa vụ liên quan.
3) Hạn chế về mặt kỹ thuật: Mặc dù DAO mong muốn mã là luật hoặc Quy định theo mã nhưng rất khó triển khai trên thực tế. Điều này là do có một khoảng cách lớn về ngữ nghĩa giữa các quy tắc pháp lý (còn được gọi là mã ướt) và các quy tắc được viết trong hợp đồng thông minh (còn được gọi là mã khô). Để đạt được tính linh hoạt cao hơn, cái trước thường được soạn thảo ở mức độ trừu tượng cao bằng cách sử dụng ngôn ngữ tự nhiên mơ hồ, toàn diện và linh hoạt. Tuy nhiên, cái sau là một mã rõ ràng về mặt ngữ nghĩa, phải mô tả chính xác các quy tắc bằng ngôn ngữ máy tính chính thức và nghiêm ngặt. Không thể tránh khỏi sự mơ hồ và sai sót trong quá trình dịch thuật. Ngoài ra, nhiều trường hợp (ví dụ: một số trường hợp đặc biệt) rất khó hoặc thậm chí không thể dịch sang mã, điều này ở một mức độ nào đó hạn chế tính thực tế và khả năng tiếp cận của DAO.
Xu hướng tương lai
Đầu tiên, ở cấp độ pháp lý, trước tình trạng thiếu trách nhiệm pháp lý hiện nay của DAO cũng như các vấn đề trong việc áp dụng và thẩm quyền pháp luật, cần tăng cường thiết lập các hệ thống pháp luật và quy định có liên quan, từ đó xác nhận các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của DAO.
Thứ hai, về vấn đề bảo mật, việc xác minh chính thức và kiểm tra bảo mật của nhiều bên đối với hợp đồng thông minh, thiết lập các tiêu chuẩn chuyển đổi điều khoản của hợp đồng thông minh và hộp cát quy định là những cách hiệu quả để cải thiện bảo mật DAO và bảo vệ quyền riêng tư.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, DAO có thể được coi là một hệ thống xã hội bao gồm các tác nhân thông minh quy mô lớn thông qua các kết nối mạng xã hội, với các đặc điểm không chắc chắn, đa dạng và phức tạp (UCD – uncertainty, diversity, and complexity). Để đạt được sự quản lý và kiểm soát DAO hiệu quả, phương pháp tiếp cận blockchain song song có thể được sử dụng. Blockchain song song là sự kết hợp của Hệ thống nhân tạo + Thí nghiệm tính toán + Phương pháp thực thi song song (ACP – Artificial systems + Computational experiments + Parallel execution) và công nghệ blockchain. Trong blockchain song song, phần hệ thống nhân tạo (A) được sử dụng để mô hình hóa một hoặc nhiều hệ thống blockchain nhân tạo tương ứng với hệ thống blockchain trong thế giới thực trong không gian mã của hợp đồng thông minh. Dựa trên các hệ thống blockchain nhân tạo và thế giới thực cùng phát triển , các thử nghiệm tính toán đa dạng có thể được thiết kế và tiến hành trong phần thử nghiệm tính toán (C) để đánh giá và xác minh hành vi, cơ chế và chiến lược cụ thể liên quan đến hệ thống blockchain ; giải pháp tối ưu sẽ xuất hiện thông qua các thử nghiệm và phản hồi này tới các hệ thống blockchain trong thế giới thực trong phần thực thi song song (P) để hiện thực hóa việc tối ưu hóa quyết định và điều chỉnh song song của các hệ thống blockchain.
VI. KẾT LUẬN
Với sự phổ biến và ứng dụng sâu rộng của công nghệ blockchain , DAO mới nổi đã trở thành một chủ đề nóng. Do các quy tắc quản lý và vận hành của DAO đều được mã hóa trên blockchain dưới dạng hợp đồng thông minh nên nó có thể hoạt động tự chủ mà không cần sự kiểm soát tập trung hay sự can thiệp của bên thứ ba. Do đó, DAO được coi là sự lật đổ mô hình quản trị phân cấp truyền thống. Bài viết này đã trình bày tổng quan toàn diện về DAO, bao gồm khái niệm và đặc điểm, khung thành phần và phân tích, cách triển khai điển hình, thách thức và xu hướng trong tương lai. Đặc biệt, một mô hình tham chiếu cho DAO sử dụng kiến trúc năm lớp được đề xuất. Trọng tâm của bài viết này là giới thiệu chi tiết về DAO, đồng thời cung cấp hướng dẫn và tài liệu tham khảo hữu ích cho các nỗ lực nghiên cứu và ứng dụng công nghiệp trong tương lai của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aragón P., Y. Volkovich, D. Laniado, and A. Kaltenbrunner, “When a movement becomes a party: Computational assessment of new forms of political organization in social media,” in Proc. 10th Int. AAAI Conf. Web Social Media, Mar. 2016, pp. 12–21.
Bonabeau E., M. Dorigo, and G. Theraulaz, “Inspiration for optimization from social insect behaviour,” Nature, vol. 406, no. 6791, pp. 39–42, 2000
Braakman R., M. J. Follows, and S. W. Chisholm, “Metabolic evolution and the self-organization of ecosystems,” Proc. Nat. Acad. Sci. USA, vol. 114, no. 15, pp. E3091–E3100, 2017
Georgeff M., B. Pell, M. Pollack, M. Tambe, and M. Wooldridge, “The belief-desire-intention model of agency,” in Proc. Int. Workshop Agent Theories, Architectures, Lang., 1998, pp. 1–10.
Howe J., “The rise of crowdsourcing,” Wired Mag., vol. 14, no. 6, pp. 1–4, Jun. 2006.
Larimer D.. Overpaying for Security. Accessed: Jun. 28, 2019. [Online]. Available: https://letstalkbitcoin.com/is-bitcoin-overpaying-for-false-security
Li J., Z. Cai, J. Wang, M. Han, and Y. Li, “Truthful incentive mechanisms for geographical position conflicting mobile crowdsensing systems,” IEEE Trans. Comput. Social Syst., vol. 5, no. 2, pp. 324–334, Jun. 2018.
Luo Y., G. Iyengar, and V. Venkatasubramanian, “Social influence makes self-interested crowds smarter: An optimal control perspective,” IEEE Trans. Comput. Social Syst., vol. 5, no. 1, pp. 200–209, Mar. 2018.
Ostrom E., L. D. Schroeder, and S. G. Wynne, Institutional Incentives and Sustainable Development: Infrastructure Policies in Perspective. Boulder, CO, USA: Westview, 1993.
Ostrom E., “Beyond markets and states: Polycentric governance of complex economic systems,” Amer. Econ. Rev., vol. 100, no. 3, pp. 641–672, 2010.
Powell W. W., “Neither market nor hierarchy: Network forms of organization,” Res. Org. Behav., vol. 12, pp. 295–336, Jan. 1990.
Rauff J. V., Multi-Agent Systems: An Introduction to Distributed Artificial Intelligence. Reading, MA, USA: Addison-Wesley, 1999.
Robinson E. J. H., O. Feinerman, and N. R. Franks, “Flexible task allocation and the organization of work in ants,” Proc. Roy. Soc. B, Biol. Sci., vol. 276, no. 1677, pp. 4373–4380, 2009.
Valle Y., G. K. Venayagamoorthy, S. Mohagheghi, J. C. Hernandez, and R. G. Harley, “Particle swarm optimization: Basic concepts, variants and applications in power systems,” IEEE Trans. Evol. Comput., vol. 12, no. 2, pp. 171–195, Apr. 2008.
Wang F.-Y., Y. Yuan, J. Zhang, R. Qin, and M. H. Smith„ “Blockchainized Internet of minds: A new opportunity for cyber–physical–social systems,” IEEE Trans. Comput. Social Syst., vol. 5, no. 4, pp. 897–906, Dec. 2018.
Wang F.-Y. et al., “A study of the human flesh search engine: Crowd-powered expansion of online knowledge,” Computer, vol. 43, no. 8, pp. 45–53, Aug. 2010.
Wei W., S. Liu, W. Li, and D. Du, “Fractal intelligent privacy protection in online social network using attribute-based encryption schemes,” IEEE Trans. Comput. Social Syst., vol. 5, no. 3, pp. 736–747, Sep. 2018.
Yuan Y. and F.-Y. Wang, “Blockchain and cryptocurrencies: Model, techniques, and applications,” IEEE Trans. Syst., Man, Cybern., Syst., vol. 48, no. 9, pp. 1421–1428, Sep. 2018.
Zaamout K. and K. Barker, “Structure of crowdsourcing community networks,” IEEE Trans. Comput. Social Syst., vol. 5, no. 1, pp. 144–155, Mar. 2018.
Zeng K., X. Wang, Q. Zhang, X. Zhang, and F.-Y. Wang, “Behavior modeling of Internet water army in online forums,” in Proc.19th World Congr. Int. Fed. Autom. Control, Cape Town, South Africa, 2014, pp. 9858–9863.